Thứ Năm tuần 8 Thường niên năm I (Mc 10,46-52)

“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. (Mc 10, 22)

BÀI ĐỌC I: Hc 42, 15-26 (Hl 15-25)

“Các công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người”.

Trích sách Huấn Ca.

Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy. Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.

Nào Chúa đã không ban cho các thánh được cao rao các việc kỳ diệu của Người, những việc mà Chúa toàn năng đã củng cố trong vinh quang của Người sao?

Người dò xét vực thẳm và lòng con người, thấu biết những mưu chước của họ, vì Chúa thấu suốt mọi sự và theo dõi những dấu thời đại, tuyên bố những gì thuộc về dĩ vãng và hậu lai, tỏ bày những dấu vết các việc ẩn kín. Không một tư tưởng nào mà Người không biết, không một lời nào có thể giấu được Người.

Người sắp đặt những kỳ công sự khôn ngoan của Người. Người có trước muôn đời và tồn tại muôn thuở, không thêm không bớt, không cần đến vị cố vấn nào. Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn. Mọi vật ấy đều sống động và tồn tại muôn đời, và vâng phục Người trong mọi hoàn cảnh. Tất cả đều có từng đôi và cái này đối diện với cái nọ, và Người không làm chi khuyết điểm. Vật này làm nổi bật vẻ đẹp cho vật kia. Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 32, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Đáp: Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành (c. 6a).

Xướng:

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng ChúaHãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.- Đáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tinChúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. – Đáp.

3) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng NgườiChúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng. – Đáp.

4) Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể NgườiVì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu. – Đáp.

Tin mừng: Mc 10, 46-52

46Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường.

47 Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.

48 Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi”.

49 Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”.

50 Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. 51 Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

52 Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Khi chữa lành anh mù Bac-ti-mê, không những Chúa Giêsu cho anh được sáng mắt, mà còn cho anh được sáng tâm hồn. Đó là anh tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mù bao giờ cũng đáng buồn. Thân xác mù thì chỉ thiệt hại cho bản thân mình, còn tâm hồn mù thì thiệt hại cho cả xã hội. Xã hội hôm nay đang nỗ lực mang ánh sáng đến cho người mù. Đó là điều cần thiết vì mang lại hạnh phúc cho người tàn tật. Nhưng điều cần thiết hơn là giúp con người tìm thấy ánh sáng cho cuộc đời. Lạy Chúa, ngày nay xã hội đang nỗ lực thực hiện công việc từ thiện là chữa mắt miễn phí cho những người mù lòa. Đó là việc cụ thể của tình người. Từ đó, xin cho con biết trao tặng ánh sáng Lời Chúa cho các tâm hồn khi chính mình đi trong ánh sáng của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết học thái độ của anh mù Bac-ti-mê. Đó là biết rằng mình đang mù. Đó là tin rằng: chỉ một mình Chúa mới có thể chữa lành. Xin cho con can đảm vượt qua mọi chướng ngại, sẵn sàng từ bỏ mọi quyến luyến ràng buộc, sẵn sàng từ bỏ mọi tính hư tật xấu, như anh mù can đảm vất bỏ cả áo khoác, để đến với Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót con.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao kẻ gặp Chúa nhưng không biết Chúa. Trong khi đó, anh mù đã nhận ra Chúa là Đấng cứu độ duy nhất và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết đến với Chúa mỗi ngày, để đón nhận hồng ân cao cả, là nhận biết Chúa là Đấng Toàn Năng, và con là người mang thân phận yếu hèn cần được cứu giúp. Xin Chúa chữa lành con và giúp con đi theo Chúa tiến về Giêrusalem với nhiều hứa hẹn đau khổ và vinh quang. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.

Ghi nhớ:“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Trong các kinh chúng ta đọc, có kinh Lạy cha là quan trọng và đủ ý nghĩa nhất của việc cầu nguyện. Trong kinh này, Chúa dạy chúng ta hai điểm:

1. Cầu nguyện là cầu nguyện với chính Chúa chứ không ai khác.

2. Cầu nguyện là tương giao với Chúa chứ không phải để thỏa mãn những nhu cầu tiêng tư.

Phân tích lời cầu nguyện mẫu này, chúng ta thấy có hai phần rõ rệt: phần đầu là tôn thờ Chúa, phần thứ hai là xin cho mỗi người.

Kinh lạy Cha cho chúng ta thấy hai chiều: chiều dọc thẳng lên là Thiên Chúa và chiều ngang là anh em cùng con một Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một vị Thiên Chúa đầy yêu thương bằng một tên gọi là Cha. Trong gia đình còn gì đoàn tụ thân tình, hạnh phúc, uy quyền hơn chữ Cha.

Chữ Cha gợi lên sự gần gũi, tin tưởng, âu yếm, bao che, thương mến. Trước hết Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy đối tượng của lời cầu xin là ai ? Thưa, là Thiên Chúa Cha, một người Cha gồm mọi tình phụ tử của trần gian. Một người Cha biết cả sợi tóc trên đầu, bông huệ ngoài đồng và chim trên trời (Mt 6,25t) bay lượn nhởn nhơ. Một người cha biết trước cả nhu cầu của con cái trước khi nó xin (Mt 6,32). Ngài đã dự bị sửa soạn sẵn tất cả, đến nỗi Ngài bảo chúng ta đừng lo gì cho ngày mai (Mt 6,34). Một người cha đã ban Ngôi con (Ga 3,16). Ban Chúa Thánh linh (Lc 11,13). Đó là một người cha thật tình vì con cái. Cho nên khi chúng ta cầu nguyện, là cần xác tín rằng chúng ta đang cầu nguyện với một người Cha tốt lành, luôn dọn phần tốt nhất cho con mình (Lc 10,42). Đấng mà chúng ta cầu xin không phải là một vị hung thần sẵn sàng giáng họa như cái kiểu “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Ngài cũng không phải là vị phúc thần chuyên môn mở kho ban ơn khi ta biết nịnh hót. Vậy thì đối tượng của lời cầu nguyện là một người cha yêu thương.

Có thể anh chị em đã từng chứng kiến cảnh tâm sự một người con đối với cha mẹ chưa. Nhất là những trẻ lên ba hầu như lúc nào cũng có chuyện để hỏi, để nói. Đấy có lẽ là hình ảnh của chính chúng ta đứng trước Thiên Chúa Cha. Cho nên cầu nguyện là thưa chuyện với một người cha đầy hiểu biết chứ không phải có gì phải lo âu sợ hãi, mà trái lại rất thân tình. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha ở trên trời là để cho chúng ta thấy rằng chúng ta thật là con cái Ngài và chúng ta có thể cầu nguyện với tất cả tin tưởng vui mừng, biết rằng cha chúng ta trên trời sẽ trả lời việc chúng ta cầu nguyện hôm nay.

Khi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (c.9). Trời là nơi Chúa ngự. Trời diễn tả tính siêu việt, huyền nhiệm khôn tả, ở ngoài tầm tay của chúng ta. Trời là hạnh phúc, nơi Chúa ngự trị. Điều này hàm ý Chúa điều khiển muôn lòai muôn vật. Vậy nếu chúng ta gọi Thiên Chúa Cha ở trên trời mà quên đi Ngài có quyền trên muôn loài muôn vật và trên cả chính chúng ta, thì chúng ta trở thành nao núng buồn phiền. Giả sử chúng ta có một người cha có địa vị trong xã hội, chúng ta có hãnh diện không ? Ở đây chúng ta có một người cha ở trên trời thì sao ? Hãy nhớ rằng Ngài đang điều khiển mọi sự dù nhỏ nhặt đến đâu, nếu Ngài không muốn thì không thể nào xảy ra được đâu.

Phần thứ hai của Kinh lạy Cha dạy chúng ta cầu nguyện là cầu cho phần hồn trước, phần xác sau. Cho phần hồn, là cầu cho mình sống xứng đáng là Con trời, là biết tha thứ , biết thắng vượt chước cám dỗ mà về trời.

Hãy ý thức rằng chúng ta đang cầu xin với một Thiên Chúa Cha tốt lành đang dành phần cho con cái.

Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:

Một người kia đọc Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy cho ông. Vị Tu sĩ mời người khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.

Một ngày kia vị Tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị Tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị Tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông thế nào là cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông làm theo thói quen như vị Tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa” khi ông thở ra, ông đọc tiếp “ Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã trở thành hơi thở của ông. Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành lời cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: “Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng”.

Thao thức của một tập sinh:

Ngày kia một tập sinh đến hỏi Đức Viện Phụ cao niên của đan viện:

– Thưa Cha, xin Cha giúp con vài lời khuyên để con thực sự trở thành người của Chúa.

Vị Viện Phụ già trả lời:

– Con hãy vào phòng, đóng kín cử lại và cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ dạy con mọi sự.

Thầy tập sinh trả lời:

– Thưa Cha, đâu là điều kiện chính giúp cầu nguyện đích thực ?

– Ô, dĩ nhiên, đó là bầu khí yêu thương. Ai cầu nguyện với tội lỗi và tâm tình thù hận trong lòng thì cũng giống như một người dọn thức ăn thịnh soạn trên một cái đĩa bẩn, hay như một người nói hay nhưng có hơi thở hôi thối.

Thầy tập sinh lại hỏi tiếp:

– Thưa Cha, con rất hay chia trí khi cầu nguyện. Làm sao để khỏi chia trí đây ?

Đức Viện Phụ đáp:

– Các chia trí cũng giống như con chim sẻ bay ngang trên trời. Không thể ngăn cản chúng bay qua mái nhà con ở. Nhưng con có thể ngăn cản không cho nó làm tổ trên mÿi nhà của con chứ ? Riêng đối với ngững tư tưởng xấu xa thì chúng giống như bọn ong bầu. Nếu con ngồi yên, chúng sẽ bay đi nơi khác. Nhưng nếu con càng động đậy, chúng sẽ càng bổ nhào đến hành hạ con.

Thầy tập sinh lại hỏi thêm:

-Tại sao khi cầu nguyện con lại hay bị chán nản ngã lòng, thưa cha ?

Bởi vì con chưa thấy đích điểm đời mình là gương mặt tuyệt vời của Thiên Chúa.

-Thưa Cha, cho con hỏi câu cuối cùng:

– Lời cầu nguyện có quan trọng thực không ? Nó có quan trọng hơn hành động không ?

– Quan trọng lắm chứ. Bằng chứng là ma quỷ hằng tìm mọi cách để quấy phá và khiến cho lời cầu nguyện trở nên nặng nề. Nó tìm mọi phương thế khiến cho chúng ta ươn lười không muốn cầu nguyện và làm cho chúng ta tin rằng cầu nguyện là vô ích.

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Người mù thành Giêricô (Mc 10, 46-52)

  1. Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van của người mù: “Lạy Con vua Đavít, xin thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự do làm con Thiên Chúa.
  2. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần mò trong bóng tối, không còn được hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
  3. Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa. Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
  4. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ, cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).
  5. Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi? Số người “thấy mà xem chẳng thấy” (kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao? Không những chúng ta phải cảm tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem những hình ảnh xấu… thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.

  1. Truyện: Chiếc đèn lồng

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói:

– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời:

– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói:

– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?

Người kia đáp:

– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con”.