“Đó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai
cũng giống như giới răn thứ nhất”.
BÀI ĐỌC I: Đnl 6, 2-6
“Hỡi Israel, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi”.
Trích sách Đệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.
“Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.
“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47-51ab
Đáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến luỹ, cứu tinh. – Đáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. – Đáp.
3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Đá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 7, 23-28
“Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu”.
Trích thư gởi cho tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Đức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.
Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời.
Đó là lời Chúa.
Tin mừng: Mc 12, 28b-34
28 Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”
29 Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.”
32 Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác.
33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.”
34 Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu! “ Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 31 Thường niên năm B
WHĐ (01/11/2024) – Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật 31 Thường niên năm B theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 2083: Các điều răn như lời kêu gọi để đáp lại tình yêu Số 2052, 2093-2094: Điều răn thứ nhất Số 1539-1547: Bí tích Truyền Chức Thánh trong Nhiệm cục cứu độ Bài Ðọc I: Ðnl 6, 2-6 Bài Ðọc II: Dt 7, 23-28 Phúc Âm: Mc 12, 28b-34 |
Số 2083: Các điều răn như lời kêu gọi để đáp lại tình yêu
Số 2083. Chúa Giêsu tóm tắt các bổn phận của con người đối với Thiên Chúa bằng giới răn này: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,37)[1]. Đây là âm vang trực tiếp của lời hiệu triệu long trọng: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4).
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa duy nhất được nhắc đến trong lời thứ nhất của “Mười lời”. Các điều răn sau đó giải thích câu trả lời của tình yêu mà con người được kêu gọi để đáp lại Thiên Chúa.
Số 2052, 2093-2094: Điều răn thứ nhất
Số 2052. “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” Để trả lời cho người thanh niên đặt câu hỏi, Chúa Giêsu nêu lên trước tiên sự cần thiết phải nhận biết Thiên Chúa như “Đấng tốt lành mà thôi”, như Điều Thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch của mọi điều tốt lành. Rồi Chúa Giêsu tuyên bố với người đó: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn”. Và Người liệt kê các điều răn về tình yêu đối với người lân cận: “Ngươi không được giết người, ngươi không được ngoại tình, ngươi không được trộm cắp, ngươi không được làm chứng gian, ngươi phải thờ cha kính mẹ”. Sau cùng, Chúa Giêsu tóm tắt các điều răn kể trên một cách tích cực rằng: “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình” (Mt 19,16-19).
Đức mến
Số 2093. Đức tin vào tình yêu Thiên Chúa bao hàm ơn gọi và sự bắt buộc phải đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng một đức mến chân thành. Điều răn thứ nhất dạy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu mến mọi thụ tạo nhờ Ngài và vì Ngài[2].
Số 2094. Người ta có thể phạm tội nghịch với tình yêu Thiên Chúa bằng nhiều cách: sự lãnh đạm là tội thờ ơ hay từ chối không quan tâm đến tình yêu của Thiên Chúa, không công nhận tình yêu đó luôn đi bước trước và phủ nhận sức mạnh của tình yêu đó. Sự vô ơn là tội quên lãng hay từ chối nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và quên lãng hay từ chối đáp lại tình yêu này bằng tình yêu của mình. Sự nguội lạnh là tội do dự hay thờ ơ trong việc đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, cũng có thể bao hàm sự từ chối dấn thân theo đức mến. Sự lười biếng hay uể oải về mặt thiêng liêng có thể đưa tới sự từ khước niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa và khinh chê sự thiện hảo của Thiên Chúa. Sự căm ghét Thiên Chúa là do kiêu ngạo, chống lại tình yêu của Ngài, phủ nhận sự tốt lành của Ngài và cố ý nguyền rủa Thiên Chúa, Đấng cấm các tội lỗi và đặt ra các hình phạt.
Số 1539-1547: Bí tích Truyền Chức Thánh trong Nhiệm cục cứu độ
Chức tư tế của Giao Ước Cũ
Số 1539. Dân Chúa chọn được Thiên Chúa thiết lập như một “vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,6)[3]. Nhưng giữa dân Israel, Thiên Chúa lại chọn một trong mười hai chi tộc, đó là chi tộc Lêvi, được đặt riêng ra để lo công tác phụng vụ[4]; chính Thiên Chúa là phần gia nghiệp của chi tộc này[5]. Một nghi thức riêng biệt đã thánh hiến các tư tế đầu tiên của Giao Ước Cũ[6]. Họ “được đặt lên vì loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội”[7].
Số 1540. Chức tư tế này được thiết lập để rao giảng lời Thiên Chúa[8] và tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa bằng các hy lễ và lời cầu nguyện, nhưng nó vẫn không có khả năng thực hiện ơn cứu độ, nên tuy lặp lại không ngừng việc dâng các hy lễ, nó vẫn không đạt được sự thánh hoá vĩnh viễn[9]; điều mà chỉ có hy tế của Đức Kitô mới thực hiện được.
Số 1541. Tuy nhiên, phụng vụ của Hội Thánh vẫn nhận ra trong chức tư tế của ông Aaron và việc phục vụ của các thầy Lêvi, cũng như việc thiết lập nhóm bảy mươi “Kỳ mục”[10], những hình ảnh báo trước cho thừa tác vụ có chức thánh của Giao Ước Mới. Trong nghi lễ La tinh, Hội Thánh cầu xin trong lời nguyện thánh hiến để truyền chức Giám mục như sau:
“Lạy Cha là Thiên Chúa và là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, … Cha đã dùng lời ân sủng mà ban bố các quy tắc trong Hội Thánh. Từ nguyên thủy, Cha đã tiền định cho dòng dõi những người công chính phát xuất từ tổ phụ Abraham. Cha đã thiết lập những vị thủ lãnh và tư tế, và không để thánh điện Cha thiếu người phục vụ…”[11].
Số 1542. Khi truyền chức linh mục, Hội Thánh cầu nguyện:
“Lạy Chúa là Cha chí thánh, … ngay ở thời Cựu Ước xa xưa đa phát sinh những chức vụ được thiết lập qua các nhiệm tích: vì khi Cha đặt ông Môisen và ông Aaron cai trị và thánh hoá dân chúng, Cha đã chọn những người có phẩm hàm và địa vị thấp hơn để giúp đỡ tập thể và công việc của các ông. Vì vậy, trong hoang địa, Cha đã phân phát thần trí của ông Môisen cho bảy mươi người có trí thông minh…. Cũng vậy, Cha đã thông ban sự sung mãn của ông Aaron cho con cháu ông”[12].
Số 1543. Và trong lời nguyện thánh hiến để truyền chức Phó Tế, Hội Thánh tuyên xưng:
“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, … Cha ban cho Thân Thể ấy (là Hội Thánh của Cha) tăng trưởng và triển nở thành Đền Thờ mới mẻ rộng lớn. Bằng các nhiệm vụ thánh, Cha thiết lập ba cấp thừa tác viên phục vụ Danh Cha, như Cha đã chọn con cháu ông Lêvi từ thuở đầu, để chu toàn thừa tác vụ nơi đền thánh cũ”[13].
Chức tư tế duy nhất của Đức Kitô
Số 1544. Tất cả hình ảnh của Giao Ước Cũ báo trước về chức tư tế đã được hoàn tất nơi Đức Kitô Giêsu, “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1 Tm 2,5). Ông Melchisedech, “tư tế của Thiên Chúa tối cao” (St 14,18), được truyền thống Kitô giáo xem như hình ảnh báo trước chức tư tế của Đức Kitô, Đấng duy nhất là “Thượng tế theo phẩm trật Melchisedech” (Dt 5,10; 6,20), “thánh thiện, vẹn toàn, vô tội” (Dt 7,26), “Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10,14), nghĩa là Người chỉ dâng một hy lễ thập giá.
Số 1545. Hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô là duy nhất, được thực hiện một lần cho mãi mãi. Tuy nhiên, hy lễ này hiện diện trong hy lễ Thánh Thể của Hội Thánh. Cũng có thể nói y như vậy về chức tư tế duy nhất của Đức Kitô: chức tư tế của Người hiện diện nhờ chức tư tế thừa tác mà tính duy nhất của chức tư tế của Đức Kitô không bị suy giảm: “Thật vậy, Đức Kitô là vị Tư tế đích thực duy nhất, còn những người khác chỉ là thừa tác viên của Người”[14].
Hai cách tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô
Số 1546. Đức Kitô, là thượng tế và trung gian duy nhất, đã làm cho Hội Thánh thành vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người[15]. Như vậy, toàn thể cộng đoàn các tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế do Phép Rửa qua việc họ tham dự, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình, vào sứ vụ của Đức Kitô là Tư tế, Tiên tri và Vương đế. Nhờ các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, các tín hữu “được thánh hiến để trở nên… một hàng tư tế thánh”[16].
Số 1547. Chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của các Giám mục và linh mục và chức tư tế cộng đồng của tất cả các tín hữu, “mỗi chức theo cách của mình, tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô”[17]; tuy khác nhau về bản chất, nhưng “cả hai tuỳ thuộc lẫn nhau”[18]. Theo nghĩa nào? Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu được thực hiện qua việc làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa, đời sống tin cậy mến, đời sống theo Chúa Thánh Thần; còn chức tư tế thừa tác là để phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa của mọi Kitô hữu. Đó là một trong những phương tiện Đức Kitô không ngừng sử dụng để xây dựng và dẫn dắt Hội Thánh Người. Vì vậy mà chức tư tế thừa tác được trao ban qua một bí tích riêng, là bí tích Truyền Chức Thánh.
Bài giảng Đức Thánh Cha – Chúa nhật 31 Thường Niên năm B
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 31 Thường Niên năm B.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 31 Thường Niên năm B (31/10/2021) – Lời Chúa phải được nghiền ngẫm Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 31 Thường Niên năm B (04/11/2018) – Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không thể tách rời Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 31 Thường Niên năm B (04/11/2012) – Nhìn người khác với cái nhìn của Thiên Chúa |
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Các câu hỏi của người kinh sư trong bài Tin Mừng là một vấn đề nan giải của người Do Thái bấy giờ. Họ phân luật thành 612 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều, nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Ðức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật chính đáng và đồng thời chứng tỏ Ngài là Chúa của Lề Luật. Ngài tuyên bố: tất cả các giới luật đều qui về hai điều chính: mến Chúa – yêu người. Hai điều luật này không thể tách rời nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay dạy chúng con quá rõ ràng: muốn được sự sống đời đời phải kính mến Chúa, yêu thương anh em. Ai trong chúng con cũng biết điều ấy, nhưng chưa thực hành hay chỉ làm một cách máy móc hình thức. Xin Chúa giúp chúng con hiểu sâu xa lời dạy của Chúa và đem thi hành một cách cụ thể trong đời sống. Amen.
Ghi nhớ: “Ðó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.
2. Nếu chúng ta chỉ dâng các hy lễ, nếu chúng ta chỉ nói lên những công thức cầu nguyện, nếu chúng ta chỉ dâng những điều khác với bản thân chúng ta mà chúng ta không hề dấn thân vào đó thực sự, chúng ta không yêu mến là chúng ta đánh mất ý nghĩa, chiều hướng của đời sống chúng ta.
3. Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng. Yêu mến là ra khỏi tình trạng thụ động, trơ ì, lãnh đạm, tìm thoải mái riêng tư, hời hợt, ngờ vực, để hướng về Thiên Chúa cách năng động mạnh mẽ và cương quyết, với một sự quan tâm sâu xa, tha thiết, sống động. Yêu mến Thiên Chúa là vận dụng tất cả năng lực trí tuệ và ý chí để hiểu biết Ngài, gặp gỡ Ngài, đón tiếp Ngài trọn vẹn, để được Ngài nắm lấy và lấp đầy. Nói cho cùng, yêu mến Thiên Chúa là luôn cố gắng mở ra với Ngài mãi.
4.”Nghe đây, hỡi Ítraen”. Đức Giêsu nhắc lại một lời kêu gọi của Cựu Ước, nhưng ở bên trong sứ điệp của Người, đây cũng là một lời mời gọi lắng nghe chính Người và hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, là Đấng đến tỏ mình ra cho ta nơi Đức Giêsu. Đối với chúng ta, vì muốn yêu mến Thiên Chúa, trong khi đì tìm Thiên Chúa, để có thể yêu mến vị Thiên Chúa chân thật, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu.
5. Nói rằng tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta, có nghĩa là chúng ta chấp nhận người thân cận trong tính riêng tư độc đáo của họ, chúng ta nhìn nhận họ cũng được Thiên Chúa muốn có và tạo thành như chúng ta. Điều răn yêu thương người thân cận có nền tảng và diễn tả ra là chúng ta – tôi và người thân cận – chúng ta đều mắc nợ tình yêu Thiên Chúa như nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng là một tiếng thưa “xin vâng” với sự an bài của Thiên Chúa.
6. Thật ra, điều răn này không có ý san bằng mọi người. Điều răn này phát xuất từ giả thiết là mọi khác biệt đều phụ thuộc; rằng mọi người về căn bản đều ở trên một bình diện như nhau, đều có tầm quan trọng, có giá trị, phẩm giá như nhau.
Với bài đọc Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến giây phút hoà hợp lạ lùng giữa Chúa Giêsu và một kinh sư. Kinh sư hỏi Chúa: “Thưa thầy trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” Chúa trả lời: “ Điều răn đứng hàng đầu là, nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Giây phút này là cuộc gặp gỡ và đồng thuận hoàn hảo nhất giữa hai truyền thống Công giáo và Do thái. Tình yêu Thiên Chúa vượt hẳn các đòi hỏi, luật lệ, tuân thủ và trung thành khác của tôn giáo. Hẳn quí vị “bảo thủ” nghe Chúa tuyên bố phải giật mình. Bởi tình yêu này thúc đẩy chúng ta cho đi bản thân mình hoàn toàn, khi đó tình yêu đồng loại là tất yếu. Nó là thể hiện rõ nét tình yêu của ta đối với Chúa. Nếu không lấy gì làm bằng chứng? Tình yêu Thiên Chúa chỉ có tính “xác thực” khi nó cụ thể hoá nơi tha nhân. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự có mặt của anh chị em đồng loại: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Ông kinh sư nói với Đức Kitô: “Thưa thầy, hay lắm thầy nói rất đúng”
Đón nhận nước trời với tấm lòng của một trẻ thơ: đơn sơ, tin cậy, phó thác, khó nghèo như Ngài dạy bảo. Chúng ta cần phải nhận ra rằng mình không thể vào nuớc đó bằng sức riêng, tuân giữ lề luật, ăn chay, bố thí, hay bất cứ công việc đạo đức nào khác, mà phải hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa để được ơn làm thành phần nước trời, phải tôn trọng giới răn mến Chúa yêu người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực mình. Xin lưu ý từ đầu Phúc Âm Marcô, Gioan tẩy giả tiên báo là có Đấng đến sau ông, lớn hơn ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (1, 7-8). Chúa Giêsu ứng nghiệm lời hứa ấy. Ngài ban ơn sự sống là quà tặng của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ cung cấp khả năng cho chúng ta chu toàn giới răn mến Chúa yêu người mà Ngài vừa dạy thầy thông luật. Ông ta không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu, nhưng không thể vào nếu không được ân thiêng Thiên Chúa đổ xuống. Liệu chúng ta có nhận ra sự thật, hay vẫn nghênh ngang tự cao tự đại? Phong mình là thần thánh, bước vào nước trời bất cần Thiên Chúa.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
+++
A. DẪN NHẬP
Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy, chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ điều răn ấy.
Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định: “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31). Thánh Phaolô nói: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13). Thánh Tông đồ dân ngoại còn khẳng định thêm: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức ái.
Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa, và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người, nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1:Đnl 6,2-6
Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.
Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.
Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2:Dt 7,23-28
Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư tế của Đức Giêsu. Chức Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy:
– Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.
– Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn.
– Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
+ Bài Tin mừng:Mc 12,28b-34
Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tuỳ theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất. Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ: đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Hai giới răn trọng nhất
I. GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
+ Giới răn trong Cựu ước
Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.
Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu: “Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.
Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất, nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.
Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật. Ông Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứluật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.
2. Giới răn trong Tân ước
Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh thánh, vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ!
Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng: khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.
Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Israel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em: “Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Lv 19,18-34).
Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (J. Hervieux).
* Hãy yêu tha nhân. Tha nhân là ai? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân” mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.
* Như chính mình ngươi. Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, màu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
II. NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ
1. Liên hệ giữa hai giới răn
Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một. Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này, chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.
Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được
Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Lm. Phạm Văn Phượng).
2. Tình yêu và hành động
Nếu thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói: tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
a) Mến yêu Chúa
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài, nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin mừng. Chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những lời Chúa dạy:
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,15-21.23).
b) Yêu tha nhân
Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình” (Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai hoạ; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.
Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.
Ngay bên Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực: “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”: điều gì mình muốn làm cho mình thì hãy làm cho người ta như vậy.
c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu?
Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế, khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình: chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Chúa nồng nàn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quý mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quý người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.
3. Thành quả của hai giới răn đó
Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi: nếu chúng ta không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu,
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu.
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài,
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi,
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Chúng ta có thể quả quyết: bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
III. THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA
Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời cũng phải thương yêu anh em như chính mình. Yêu anh em như mình là chuyện khó, vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của chúng ta.
Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu mến Chúa được” (1Ga 4,20).
Theo lời thánh Giêrônimô, khi thánh Gioan Tông đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân: “Sao cha giảng điều ấy hoài?” Thánh Tông đồ đã trả lời: “Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được duy một điều đó là đủ rồi”.
Đức Giêsu đã phán: “Các con muốn được người ta làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm: “Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn toé ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.
Napoléon,hoàng đế đầy uy quyền của Pháp, đã tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène
Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh kinh “cái ác giết ác nhân” (Tv 33,22).
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất: “Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.
Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời). Lời ấy được lấy lại trong Ôsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài: dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.
Truyện: Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”.
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn, nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót: thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay.Hỏi: “Ta sống ở đời này để làm gì?”Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
Tin tức liên quan khác
Quý cha Tuyên xưng Đức tin và nhận bằng bổ nhiệm
Đức Thánh Cha Phanxicô: Anh chị em là thành viên quý giá của Giáo hội này
Đức Thánh Cha: Trong lao động phải quan tâm đến con người hơn là lợi ích cá nhân
Đức Maria, hiền mẫu và gương mẫu của linh mục
Thánh lễ An táng Đức Giám mục Gioan Baotixita Bùi Tuần
Đức Tổng Giám mục Gallagher trao đổi về cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với phái đoàn Việt Nam
Hướng về lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu
Giáo Hội của người trẻ và cho người trẻ – Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm