“Ai có hai áo, hãy cho người không có;
ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy.” (Lc 3, 11)
BÀI ĐỌC I: Xp 3, 14-18a
“Chúa sẽ hân hoan vì người”.
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.
Đó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả (c. 6).
Xướng: Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.
Xướng: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.
Xướng: Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả.
BÀI ĐỌC II: Pl 4, 4-7
“Chúa gần đến”.
Trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
Đó là lời Chúa.
Tin mừng: Lc 3, 10-18
10 Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: “Vậy chúng tôi phải làm gì?”
11 Ông trả lời: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. 12 Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”
13 Gioan đáp: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. 14 Các quân nhân cũng hỏi: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”
Ông đáp: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. 15 Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: “Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?”
16 Gioan trả lời cho mọi người rằng: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.
17 Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!” 18 Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.
Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C
WHĐ (12/12/2024) – Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 30, 163, 301, 736, 1829, 1832, 2015, 2362: Niềm vui Số 523-524, 535: Thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Messia Số 430-435: Chúa Giêsu – Đấng Cứu Độ Bài Ðọc I: Xp 3, 14-18a Bài Ðọc II: Pl 4,4-7 Phúc Âm: Lc 3, 10-18 |
Số 30, 163, 301, 736, 1829, 1832, 2015, 2362: Niềm vui
Số 30. “Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỉ!” (Tv l05,3). Dù con người có thể quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mọi người tìm kiếm Ngài để họ được sống và đạt được hạnh phúc. Nhưng việc tìm kiếm này đòi hỏi con người phải có nỗ lực của trí tuệ, sự ngay thẳng của ý chí, “một tấm lòng thành”, và phải có cả chứng từ của những người khác để dạy con người tìm kiếm Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, Chúa vĩ đại và rất đáng ca tụng: quyền năng của Chúa cao cả và sự khôn ngoan của Chúa thật khôn lường. Và con người, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, con người trong thân phận phải chết, mang nơi mình chứng tích của tội lỗi mình và chứng tích việc Chúa chống lại kẻ kiêu căng: vậy mà con người như vậy, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, muốn ca tụng Chúa. Chính Chúa thúc giục để con người vui thích ca tụng Chúa, bởi vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con không yên nghỉ cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”[1].
Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:
“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi”[2].
Số 301. Sau khi tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ mặc thụ tạo của Ngài. Không những Thiên Chúa cho chúng hữu thể và hiện hữu, nhưng Ngài còn luôn luôn giữ gìn chúng “hiện hữu”, cho chúng có thể hoạt động và dẫn đưa chúng đến cùng đích của chúng. Nhận biết sự lệ thuộc tuyệt đối như vậy vào Đấng Tạo Hoá là nguồn mạch của sự khôn ngoan và tự do, của niềm vui và sự tin tưởng:
“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,24-26).
Số 736. Nhờ sức mạnh đó của Chúa Thánh Thần, các con cái Thiên Chúa có thể mang lại hoa trái. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ làm cho chúng ta mang lại hoa trái của Thần Khí, là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Thần Khí là sự sống của chúng ta; chúng ta càng từ bỏ chính mình[3], Thần Khí càng làm cho chúng ta hoạt động[4].
“Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được phục hồi để vào thiên đàng, được dẫn lên Nước Trời, được ban ơn làm nghĩa tử: chúng ta được vững lòng để gọi Thiên Chúa là Cha của mình, và thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, được gọi là con cái ánh sáng và dự phần vào vinh quang vĩnh cửu”[5].
Số 1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là như hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ; đức mến thì nhân hậu; nó khơi dậy sự tương thân tương ái, không tìm tư lợi, và quảng đại; đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông:
“Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích: chúng ta chạy vì đó, chúng ta chạy đến đó; và khi tới đó, chúng ta sẽ yên nghỉ”[6].
Số 1832. Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, khiết tịnh” (Gl 5,22-23 vulg.).
Số 2015. Con đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng.[7] Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:
“Ai trèo lên, người đó không bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước điều người đó đã biết rồi”[8].
Số 2362. “Những hành vi…, qua đó đôi phối ngẫu kết hợp với nhau cách thân mật và khiết tịnh, đều ngay chính và xứng đáng, và khi được thực hiện cách thật sự nhân bản, những hành vi ấy biểu thị và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong tâm tình vui mừng và biết ơn”[9]. Tính dục là nguồn mạch của sự hoan lạc và thú vui.
“Chính Đấng Tạo Hoá … cũng đã sắp đặt để, trong nhiệm vụ sinh sản, đôi phối ngẫu gặp được thú vui và hạnh phúc cả thân xác cả tinh thần. Vì vậy, đôi phối ngẫu chẳng làm điều gì xấu, khi tìm kiếm và tận hưởng thú vui đó. Họ đón nhận những gì Đấng Tạo Hoá đã nhắm ban cho họ. Tuy nhiên, đôi phối ngẫu cũng phải biết giữ mình trong những giới hạn của sự tiết độ chính đáng”[10].
Số 523-524, 535: Thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Messia
Số 523. Thánh Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa[11], đã được sai đến để dọn đường[12]. Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc l,76), troi vượt tất cả mọi Tiên tri[13], và là vị Tiên tri cuối cùng[14]. Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng[15]; ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Kitô đến[16], và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thanh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga l,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình[17].
Số 524. Mỗi năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh thể hiện lại niềm mong đợi Đấng Messia: khi hiệp thông với sự chuẩn bị lâu dài để đón Đấng Cứu độ ngự đến lần thứ nhất, các tín hữu canh tân lòng sốt sắng đón chờ Người ngự đến lần thứ hai[18]. Khi mừng sinh nhật và cuộc tử đạo của vị Tiền Hô, Hội Thánh hợp nhất với ước nguyện của thánh nhân: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Số 535. Chúa Giêsu khởi đầu[19] quãng đời công khai bằng việc Người chịu phép rửa của ông Gioan tại sông Giođan[20]. Ông Gioan rao giảng “phép rửa tỏ lòng thống hối để được ơn tha tội” (Lc 3,3). Đông đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính[21], Pharisêu và Sađoc[22], cùng những cô gái điếm[23], đến xin ông làm phép rửa. “Bấy giờ Chúa Giêsu đến”. Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng Chúa Giêsu yêu cầu: Người chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giêsu, và có tiếng phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,l3-l7). Đây là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra (“Hiển Linh”) với tư cách là Đấng Messia của Israel và là Con Thiên Chúa.
Số 430-435: Chúa Giêsu – Đấng Cứu Độ
Số 430. Trong tiếng Do thái, “Giêsu” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”. Khi Truyền tin, thiên thần Gabriel dạy đặt tên cho Người là Giêsu; tên gọi này vừa diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người[24]. Bởi vì không ai “có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho nên, trong Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa “sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa tóm kết toàn bộ lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.
Số 431. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với việc giải thoát Israel khỏi “cảnh nô lệ” (Đnl 5,6) khi đưa họ ra khỏi Ai cập. Ngài còn cứu họ khỏi tội lỗi của họ nữa. Bởi vì tội luôn là một xúc phạm đến Thiên Chúa[25], nên chỉ mình Ngài mới có quyền tha tội[26]. Vì vậy, khi Israel càng ý thức rõ hơn về tính phổ quát của tội lỗi, họ càng không thể tìm kiếm ơn cứu độ ngoài việc khẩn cầu danh Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc[27].
Số 432. Danh “Giêsu” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện diện nơi bản thân của Con Ngài[28], Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội lỗi một cách dứt khoát. “Giêsu” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại ơn cứu độ[29], và từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết hợp với tất cả mọi người[30] đến độ “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12)[31].
Số 433. Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi năm một lần để xin ơn xá tội cho Israel, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn xá tội trong nơi Cực Thánh[32]. Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện[33]. Khi thánh Phaolô nói về Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người” (Rm 3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, “Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,l9).
Số 434. Việc phục sinh của Chúa Giêsu làm hiển vinh thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ[34], bởi vì từ lúc đó Danh Giêsu bày tỏ cách trọn vẹn quyền năng tối thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-l0). Các Thần dữ khiếp sợ Danh Người[35], và nhân Danh Người, các môn đệ Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ[36], bởi vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha đều ban cho họ[37].
Số 435. Danh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm của kinh nguyện Kitô giáo. Tất cả các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Maria là câu “và Giêsu, con lòng Bà gồm phúc lạ”. Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn nguyện Chúa Giêsu” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nhiều Kitô hữu đã chết khi mieng chỉ kêu danh thánh “Giêsu”, như thánh nữ Jeanne d’Arc[38].
Bài giảng Đức Thánh Cha – Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (12/12/2021) – Tôi phải làm gì? Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (16/12/2018) – Niềm vui sẽ tràn đầy nếu tâm hồn chúng ta ở trong Chúa Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (13/12/2015) – Niềm vui vì được thương xót Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (13/12/2015) – Thiên Chúa không loại trừ bất kỳ ai khỏi cơ hội được cứu rỗi Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (16/12/2012) – Vui vì Chúa ở cùng chúng ta Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 3 Mùa Vọng năm C (16/12/2012) – Tính thời sự trong câu trả lời của Thánh Gioan Tẩy giả |
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Suy niệm: Dân chúng tuôn đến với Gioan và xin ông chỉ giáo cho phải làm gì để được đón nhận ơn cứu độ.
Tôi phải làm gì ? Ðó có phải là câu hỏi luôn cật vấn tôi không ? Tôi có luôn trở về với lòng mình để tự kiểm điểm trước những hành động của mình không ? Tôi có áy náy trước điều không được làm mà tôi cứ làm không ? Tôi có lo toan trước việc phải làm mà tôi chưa làm không ?
Phải luôn tự hỏi mình: Tôi phải làm gì để được đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như Gioan hướng dẫn từng giới để biết chu toàn nhiệm vụ của mình và sống tương quan tốt với tha nhân. Ngày nay Lời Chúa cũng luôn hối thúc trong lương tâm chúng con, trong Kinh Thánh mà chúng con suy niệm hằng ngày. Xin cho chúng con biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Amen.
Ghi nhớ:“Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì ?”
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống..
Khi “dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói “Hãy sám hối”. Người ta hỏi lại “Vậy chúng tôi phải làm gì?”. Và Gioan đã chỉ cho họ những việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ:
– Người có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
– Người đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
– Kẻ đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.
Gioan còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Đấng Messia, và giới thiệu Đấng Messia thật cho họ biết.
B. … nẩy mầm.
1.”Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi của các thính giả của Gioan ngày xưa. Câu hỏi của mỗi người chúng ta ngày nay cũng phải là “Tôi phải làm gì đây?”. Sống Mùa Vọng không phải chỉ là thụ động chờ đợi, mà phải tích cực làm một điều gì đó cụ thể. Điều cụ thể đó cũng phải có liên hệ tới cách sống hiện tại: nó thiếu sót chỗ nào thì phải sửa đổi chỗ đó.
2. Những thiếu sót của các thính giả Gioan cũng là những thiếu sót của tôi: ích kỷ không chia xẻ, lỗi đức công bình, hà hiếp người khác…
3. Gương khiêm tốn của Gioan: nhìn nhận đúng như mình là. Người ta tưởng mình là gì đi nữa, cho dù những tưởng tượng ấy làm cho mình có một hình ảnh tốt đẹp và khiến mình hãnh diện sung sướng thì mình cũng không nhận.
4. Lần kia, khi nói chuyện với một nhóm nhỏ, Alexander White đã làm cho họ ngạc nhiên khi nói: “Ở trong thành phố Edinburgh này, tôi biết có một người xấu xa nhất. Tôi còn biết cả tên người đó.” Rồi cúi mình thật sâu, ông nói nhỏ: “Người đó tên là A. White.” Ông nói câu đó với tất cả lòng thành thực, không chút giả tạo, màu mè. Nên lời nói của ông ngày đó có tác động sâu xa. (Góp nhặt)
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Màu hồng, vì ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi “Hãy vui lên” của thánh Phaolô. Bài đọc 1 và 2 hôm nay làm sáng lên niềm vui và hy vọng. Màu hồng là màu diễn tả niềm vui thay vì màu tím, màu của tình trạng chưa được thoả mãn. Có tất cả những điều ấy vì ngày Chúa đến đã gần kề. Ngày hôm nay là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của đời Kitô hữu, của những người có Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có được niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho việc Chúa đến. Nói cách khác, trong khi chờ đợi Chúa đến, chúng ta phải làm gì một cách cụ thể? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.
Một cách tổng quát, thánh Gioan bảo mọi người phải thực thi công bằng và bác ái trong khi chờ đợi Chúa đến. Nhưng cách riêng đối với từng hạng người thì Gioan đã cho những chỉ dẫn khác nhau:
– Đối với dân chúng: hãy biết chia sẻ cho người khác.
– Đối với người thu thuế: hãy thực thi đức công bằng.
– Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân chúng.
Họ không cần thay đổi nghề nghiệp mà chỉ cần sống cho lương thiện.
Ngoài ra, để đánh tan dư luận cho ngài là Đấng Messia thì Gioan đã khiêm tốn loan báo cho họ biết Đấng Messia sẽ đến, Ngài cao trọng hơn ông, đến nỗi ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Xp 3,14-18
Tiên tri Xôphônia, là người đồng thời với tiên tri Giêrêmia, đi rao giảng vào cuối thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, thời ấu vương Giosias (640-630) vào những năm trước cuộc phục hưng tôn giáo do nhà vua phát động.
Trong hoàn cảnh đó, nước Do thái đang ở trong tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy đồi, bên ngoài thì hoạ xâm lăng đang rình rập. Tuy thế, tiên tri Xôphônia vẫn loan báo tin vui cho dân chúng: “Án lệnh của ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩyxa”, vì thế “Hãy reo lên hỡi thiếu nữ Sion. Hoan hô đi nào, hỡi Israel! Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Giêrusalem… Bởi đã đến ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ và ngự giữa dân Ngài”.
+ Bài đọc 2:Pl 4,4-7
Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui lên trong niềm vui của Thiên Chúa, bởi vì Chúa sắp đến với ơn bình an của Ngài: “Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Pl 4,4).
Niềm vui này sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta biết sống hiền hoà rộng rãi với mọi người và biết sống phó thác cho Chúa trong lời cầu nguyện. Không phải lo lắng gì cả, có gì cứ trình bày với Chúa.
+ Bài Tin mừng:Lc 3,10-18
Nghe Gioan rao giảng, người ta nô nức đến sông Giođan chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Họ tỏ lòng sám hối để đón chờ Chúa đến. Nhưng để dọn đường cho Chúa đến, dân chúng chưa biết phải làm gì và làm thế nào, nên họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?”
Để giúp các thành phần trong dân Chúa dọn lòng đón tiếp Đấng Messia, Gioan Tẩy giả đã đề nghị một cách tổng quát: Hãy sống công bình và bác ái. Ông không bảo họ phải bỏ nghề nghiệp của mình mà hãy sống tốt cho phù hợp với hoàn cảnh của từng hạng người:
– Đối với người dân: hãy chia sớt cho ai không có.
– Đối với người thu thuế: hãy sống công bằng.
– Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân.
Thấy dân chúng tôn vinh mình, tưởng mình là Đấng Messia, Gioan đã khiêm tốn phủ nhận dư luận ấy, và giới thiệu Đấng Messia thật cho họ biết: “Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA:Tôi phải làm gì đây?
I. ẢNH HƯỞNG CỦA LỜI KÊU GỌI
1. Gioan rao giảng việc sám hối
Trong tuần lễ trước, thánh Gioan đã xuất hiện tại sa mạc Giordan rao giảng kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ông đã lặp lại lời tiên tri Isaia cách đó 500 năm, vạch ra con đường để dân chúng theo: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Lời kêu gọi đó đã được nhiều người chấp nhận, trong số những người đã chịu phép rửa ở sông Giođan có cả những người thu thuế và quân nhân. Dĩ nhiên cũng có người tò mò đến xem hoặc đến nghe mà cứng lòng không hối cải như những người biệt phái và luật sĩ. Đối với những người ấy, Gioan đã răn đe, báo trước cho họ hình phạt sẽ hòng đổ xuống đầu như chiếc rìu đã đặt sẵn vào gốc cây.
2. Ý thức và nhận mình là người có tội
Muốn sửa đổi con người của mình, muốn tiến triển trên con đường nhân đức, điều cần thiết là phải biết mình. Người ta thường mắc khuyết điểm này vì: “Bàng quangiả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Nhiều khi con người bị tính tự ái hay tình tư dục làm mờ ám lương tri, không còn nhìn ra chân lý, không biết thực trạng con người mình, nên nhiều khi cần có người thức tỉnh. Truyện: Anh là người có tội
Cách đây ít lâu, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề “Whatever became of sins” (điều gì đang xảy đến cho tội lỗi). Ông bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Vào một ngày chúa nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng cánh tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên: “Anh là kẻ có tội!” Đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây, rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác rồi la lên: “Anh là kẻ có tội!”
Bác sĩ Menninger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp (Mark Link).
Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giođan. Ngài cũng như nhà giảng thuyết đã chạm vào nơi vùng thâm sâu dễ thương tổn nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi hỏi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.
3. Chờ đợi Đấng Cứu thế
Kẻ học biết Kinh thánh và những luật sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là: “Vua được xức dầu. Ngài đến trong dòng dõi Giuđa. Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua chúa ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy”.
Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến.
Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến với Gioan và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế”.
II. CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
Những hướng dẫn cụ thể
Sau khi được nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy giả, dân chúng nôn nóng muốn thực hành ngay những điều ông dạy, nhưng những lời rao giảng ấy còn khó hiểu với những người phần lớn là thôn quê, đơn sơ chất phác. Họ muốn những lời dạy cụ thể hơn. Những việc mà Gioan muốn cho họ thực hiện chung qui là “Công bằng và Bác ái”. Tùy từng hạng người mà ông cho những hướng dẫn cụ thể.
a) Đối với dân chúng
Đám dân đến nghe Gioan rao giảng đều là những người bình dân, cho nên lời rao giảng của ông là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự hoán cải qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “metanoia” cần được thực hiện. Nên Gioan đã trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.
b) Đối với người thu thuế và quân nhân (cảnh sát)
Trong đám đông dân chúng đến chịu phép rửa, người ta nhận thấy có cả người thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài lề xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.
Những người thu thuế cũng thành thực hỏi ông: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làmgì?” Ông trả lời cho họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh emchúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Ở đây chúng ta nhận ra rằng Tin mừng theo thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu” dùng bữa nơi nhà người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình với Đức Giêsu, “ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những người “đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).
2. Không đổi nghề nhưng đổi cung cách hành xử
Thánh Phaolô không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như Ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng đối với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thương, hãy thực thi bác ái.
Còn đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới: tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời ấy thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình. Lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ (Noel Quesson).
Lao động là việc cần thiết và có lợi cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Nói đến lao động là nói đến nghề nghiệp. Hiện nay bên Mỹ người ta đếm được 23.559 cách làm ăn để sinh sống. Tựu trung tất cả các nghề làm ăn sinh sống đều quy về hai loại lao động là trí óc và chân tay. Nghề nào cũng tốt, không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu như ngạn ngữ Pháp đã nói: “Iln’y a pas un sot métier”: không có nghề nào xấu cả. Chúng ta cứ tiếp tục nghề nghiệp hiện tại của mình một cách lương thiện.
Những lời khuyên của Gioan ở trên thích nghi với địa vị của mỗi người. Ông không đòi buộc người ta tách lìa khỏi thế gian hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình, đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc chờ đợi Đấng Cứu thế. Giáo huấn của thánh Gioan vì thế có tính cách chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Đức Giêsu (Lc 6,29.32-36; Mt 5,39-48).
3. Kết quả của việc sám hối
Nếu mọi người biết thực thi lời Gioan khuyên nhủ, chắc chắn niềm vui sẽ đến với mọi người vì tâm hồn mình đang sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Lời thánh Phaolô tông đồ trong bài đọc 2 hôm nay phải rộn vang trong lòng mọi người đón chờ Chúa đến: “Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên” (Pl 4,4).
Tác giả Chesterton đã viết: “Niềm vui là bí mật to lớn của người Kitô hữu”. Quả đúng như thế, bởi vì Kitô hữu là người đã được Thiên Chúa mạc khải, được Ngài hướng dẫn đưa vào trong những kế hoạch huyền nhiệm của Ngài liên quan đến tương lai của nhân loại, cũng như những phương thế để thực hiện tương lai này. Ngoại trừ tội lỗi, không một thứ gì có thể làm cho người Kitô hữu phải buồn phiền: họ vui vì họ đã đặt mọi niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; họ luôn luôn vui, bởi vì Chúa Thánh Thần là Đấng dưỡng nuôi niềm vui của họ.
Để cho niềm vui được chan hoà trong lòng, người Kitô hữu cần biết chia sẻ niềm vui; bởi vì tâm hồn càng triển nở và dồi dào sức sống, nếu nó biết trao hiến, biết tận tình phục vụ. Đây không phải là một tình huynh đệ giả tạo, mà là sự khả ái, sự an nhiên giúp chúng ta có thể thấu hiểu mọi sự, mà không thiếu sự cương quyết; có thể sống an nhiên, mà không vì thế trốn tránh các khó khăn của cuộc đời.
Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu: “Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”. Sở dĩ Ngài khuyên các tín hữu như vậy là vì con người hay ích kỷ, chỉ biết vơ mọi cái vào cho mình, mình là trung tâm của vũ trụ, còn thì sống chết mặc bay. Cho nên biết chia sẻ niềm vui cho người khác cũng là thực thi bác ái và nó đòi phải hy sinh, hy sinh phải ra khỏi cái ốc đảo của mình để chú ý đến người khác. Người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, và nỗi buồn mà được chia sẻ thì sẽ giảm đi được một nửa”. Như vậy thì ai mà không muốn được chia sẻ?
Sự vui tươi không ở trong cảnh vật mà chỉ có ở trong lòng người: ta vui thì cảnh vật vui, ta buồn thì cảnh vật sẽ buồn. Cảnh vật bên ngoài chỉ là bức hoạ phản chiếu tâm hồn từng người. Đúng như thi sĩ Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Một người đã có Chúa trong mình thì bao giờ cũng vui tươi mặc dầu sống trong cảnh đau khổ. Không gì có thể làm cho họ buồn, vì thánh vịnh 42 đã chứng minh: “Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam”: Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Đấng làm cho tuổi xuân tôi được mừng vui” (Tv 42,4). Truyện: Vui buồn ở tại lòng người
Buổi sáng ở trạm xăng ngoại ô San Francisco. Một người ngồi xe hơi đến:
– Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát tại Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood-Highway, ông chủ có ý kiến gì không?
Ông chủ cây xăng hớn hở trả lời:
– Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.
Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, một người khác cũng muốn biết về nơi nghỉ mát này. Chàng nhăn nhó nói:
– Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét.
Ông chủ rầu rầu đáp:
– Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.
Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:
– Tại sao thay đổi ý kiến chóng như vậy?
Ông nói:
– Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ông thứ nhất yêu những người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu, ông ta cũng bất mãn nơi đó (Lm. Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, tr 210-212).
Trong tuần lễ này, chúng ta phải năng hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” Câu hỏi này chúng ta đã từng gặp nhiều lần trong Kinh thánh, để rồi Chúa sẽ trả lời cho chúng ta trong ơn thánh. Chúng ta thử đưa ra mấy trường hợp.
Trước hết, người thanh niên giàu có và thông luật đến hỏi Đức Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Ông Nicôđêmô, sau khi nghe Đức Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi: “Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại?” Khi bị quật ngã trên đường đi Đamas, thánh Phaolô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”
Tóm lại, qua bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả đã vạch ra cho chúng ta một cách sống đẹp lòng Chúa để dọn đường cho Chúa đến là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng sám hối. Và đó cũng là những chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu sẽ vạch ra sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác để có thể nói “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Chúa cũng muốn chúng ta thực hiện câu tục ngữ người ta thường nói: “Có đi cólại mới toại lòng nhau”: chúng ta có biết quên mình đi mà đến với tha nhân, thì Chúa mới đến với chúng ta và khi đã có Chúa là nguồn vui thì chắc chắn chúng ta sẽ được vui tươi. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô: “Anh em hãy vui lên trong Chúa”.
4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
LOAN BÁO TIN MỪNG
Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng có tên là Chúa Nhật Gaudete.
Gaudete có nghĩa là “Nào ta hãy vui lên!”
Chúa nhật hôm nay chủ tế có thể mặc áo lễ màu hồng.
Cả hai Bài Đọc và Đáp Ca đều mời gọi vui lên:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion! hò vang lên, hỡi Ítrael!”
Vì Đức Chúa, đang ngự giữa ngươi, đã rút lại án phạt.
Hòa mình trong niềm vui của Dân riêng,
Chính Đức Chúa cũng sẽ nhảy mừng hoan hỷ (Xp 3,17).
Thánh Phaolô đã khẩn khoản mời tín hữu Philípphê:
“Anh em hãy vui luôn trong Chúa.
Tôi nói lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!” (Pl 4,4).
Bài Đáp ca cứ ngân nga điệp khúc mời gọi:
“Dân Xion, hãy mừng rỡ reo hò, vì giữa ngươi,
Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại” (Is 12,2).
Tuy nhiên, bài Tin Mừng lại có vẻ không vui.
Khi dân chúng đến với Gioan để xin chịu phép rửa,
Ông đã gọi họ là nòi rắn độc,
đang tìm cách lẩn tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Gioan mô tả khuôn mặt của Đấng Mêsia, Đấng sắp đến.
Đấng ấy như người đang cầm rìu trong tay,
sẵn sàng chặt bất cứ cây nào không sinh quả tốt (Lc 3,9).
Đấng ấy như người cầm cái chĩa rê lúa trên sân,
thóc mẩy cho vào kho, còn thóc lép thì đốt đi (Lc 3,17).
Trong cái nhìn của Gioan, Đấng Mêsia quả thật đáng sợ.
Đấng ấy đến như thể để thiêu hủy bằng lửa:
cây không sinh trái bị quăng vào lửa,
thóc lép hay trấu cũng chịu chung số phận trong lửa.
Và phép rửa của Đấng ấy cũng trong lửa (Lc 3,16).
Có ai chờ mong một Đấng Mêsia kinh khủng như thế không?
Dù vậy Gioan vẫn coi việc Đấng Mêsia đến là một Tin Mừng.
Và “ông đã loan báo Tin Mừng cho dân” (Lc 3,18).
Nhìn sâu, ta mới thấy màu hồng của bài Tin Mừng hôm nay.
vì Đấng Mêsia mà dân Do-thái chờ đợi, nay đã đến.
Đấng ấy quá cao trọng đến nỗi Gioan chẳng đáng là đầy tớ,
cúi xuống để cởi quai dép cho Ngài.
Đấng ấy sẽ đến ban phép rửa để thanh tẩy.
Phép rửa này vượt trội so với phép rửa của Gioan,
vì là phép rửa trong Thánh Thần (x. Cv 19,1-7).
Như thế thời đại thiên sai huy hoàng nay đã đến.
Dòng lịch sử dân Do-thái đã sang một trang mới.
Đấng Mêsia đem đến màu hồng cho dòng lịch sử.
Chúng ta thường nghĩ hối cải có màu buồn, màu tím.
Tin Mừng hôm nay cho thấy hối cải có màu hồng, màu vui.
Vui vì có bao đoàn người đáp lại lời mời của Gioan,
muốn đến lãnh nhận phép rửa của ông để tỏ lòng hối cải.
Vui vì ai cũng có một ước mơ, một câu hỏi như nhau:
“Vậy chúng tôi phải làm gì ?” (Lc 3,10.12.14).
Tất cả đều hiểu hối cải không phải là buồn bã ăn năn,
nhưng là đổi lối nghĩ, dẫn đến đổi lối sống.
Hối cải là để cho cây đời mình sinh trái, trái ngon (Lc 3,8.9).
Chính Gioan dạy cho ta biết thế nào là hối cải thực sự.
Hối cải là quảng đại chia sẻ chiếc áo dư của mình,
để mình chỉ còn một áo, ngang bằng với người khác.
Hối cải là không lạm dụng quyền lực để hà hiếp, chiếm đoạt,
hay đòi hỏi người khác quá mức ấn định.
Hối cải đơn giản là thắng được lòng tham nơi mình,
bằng lòng và vui với những gì mình đang có.
Như thế hối cải có màu hồng, và làm thế giới thêm hồng.
Dù Đức Chúa đã đến từ hai ngàn năm qua,
nhưng thế giới hôm nay vẫn ảm đạm bởi bao chuyện,
bao tai họa con người gây cho nhau và cho trái đất.
Không đổ lỗi cho Trời được, khi trái đất nóng lên,
khi chiến tranh, dịch bệnh, ô nhiễm hoành hành,
khi con người sống với nhau như loài sói.
Chúng ta phải xây dựng bình an, công bằng, bác ái,
phải điểm tô màu hồng cho mọi nơi mình sống,
để Mùa Vọng năm nay thật là hồng.
LỜI NGUYỆN
Tất cả những gì chúng con nên nghĩ
nhưng đã không nghĩ.
Tất cả những gì chúng con nên nói
nhưng đã không nói.
Tất cả những gì chúng con nên làm
nhưng đã không làm.
Tất cả những gì chúng con không nên nghĩ
nhưng đã nghĩ.
Tất cả những gì chúng con không nên nói
nhưng đã nói.
Tất cả những gì chúng con không nên làm
nhưng đã làm.
Về hết mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm của chúng con,
lạy Chúa, chúng con xin Chúa tha thứ.
Lời nguyện vùng Persia
Tin tức liên quan khác
Nghỉ hè với Chúa
Nội dung cuộc phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Budapest về Roma
Kinh Truyền Tin 10/09/2023 | Sửa lỗi huynh đệ là cách diễn tả cao nhất của tình yêu
Ủy ban Thánh nhạc: Thông báo gặp gỡ và chia sẻ về việc đệm đàn trong phụng vụ
Bộ Giáo lý Đức tin liệt kê “những vi phạm nghiêm trọng” đối với phẩm giá con người
Lá thư của một tu sĩ trẻ mới qua đời ngày 15/7 vì ung thư gửi Đức Thánh Cha
Cuộc Gặp mặt Châu Âu lần thứ 46 của Taizé tại Ljubljana
Thứ Sáu tuần 28 Thường niên năm I – “Men” Pharisêu (Lc 12,1-7)