Cách nuôi dưỡng lòng hiếu khách

Những bài học từ Abraham.

Lòng hiếu khách là một trong những nhân đức lâu đời nhất của đức tin Do Thái và Kitô giáo. Trong khi niềm tin của người Do Thái và Kitô giáo vào một Thiên Chúa làm rung chuyển thế giới cổ đại, thì sự cam kết của người Do Thái và Kitô giáo trong việc quan tâm đến người khác và thể hiện lòng tốt với những người xung quanh họ – ngay cả với những người ngoài dân tộc của họ và những người đã ngược đãi họ – đã làm rung chuyển các giả định về mặt xã hội và văn hóa của thế giới cổ đại.

Cũng giống như bậc tổ tiên của chúng ta, mỗi người chúng ta cũng vậy. Chúng ta được mời gọi làm rung chuyển thế giới xung quanh mình bằng lòng hiếu khách vô điều kiện và dành cho tất cả mọi người của mình. Là những mục tử và linh mục của Giao ước mới, chúng ta được mời gọi nuôi dưỡng lòng hiếu khách trong cộng đoàn của mình và nỗ lực mỗi ngày để biến giáo xứ của chúng ta thành nơi hiếu khách.

Khi chúng ta tìm cách hướng dẫn các giáo xứ của mình trở thành nơi hiếu khách, căn lều của tổ phụ Abraham tại Mamre có thể là một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Là một dân tộc mong muốn chào đón người khác, chúng ta có thể học hỏi từ nơi đầy lòng hiếu khách này và phân định cách nào để chúng ta có thể áp dụng tốt nhất chứng tá của nơi này vào sứ vụ linh mục của chính mình và vào nền văn hóa nơi các giáo xứ của chúng ta.

Con người của cầu nguyện và lòng hiếu khách

Căn lều của Abraham là nơi hiếu khách tuyệt đỉnh. Tại Mamre, Thiên Chúa đã cho phép mình đón nhận lòng hiếu khách của người tôi tớ. Tại Mamre, bàn chân của Thiên Chúa đã được rửa sạch và Người đã được tiếp đãi một bữa ăn.

Để hiểu được lòng hiếu khách ở Mamre, chúng ta phải hiểu Abraham. Lòng hiếu khách của Abraham xuất phát từ đời sống cầu nguyện nội tâm của ông. Nếu chúng ta muốn thực sự nắm bắt được tinh thần hiếu khách và sống theo những đòi hỏi của nó, chúng ta phải cầu nguyện và theo đuổi một đời sống thiêng liêng năng động. Chỉ có cầu nguyện mới có thể mở rộng trái tim chúng ta một cách đầy đủ và biến chúng thành nguồn hiếu khách đối với người khác.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhấn mạnh đến sự vâng phục của trái tim Abraham đối với ý muốn của Thiên Chúa. Giáo Hội nhấn mạnh rằng – nếu chúng ta muốn cầu nguyện – thì trái tim chúng ta phải sẵn sàng tùng phục những chiều hướng của Thiên Chúa trong đó: “Sự chủ tâm trước những quyết định tuân theo ý muốn của Thiên Chúa là điều cần thiết cho lời cầu nguyện, trong khi những lời nói được sử dụng chỉ có giá trị liên quan đến nó.” (số 2570)

Nếu chúng ta tìm cách cầu nguyện nhưng lại đóng chặt trái tim mình trước ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta có thể dễ dàng trở thành nạn nhân của việc cầu nguyện trống rỗng, chỉ là lời nói suông, không mang ý nghĩa hay có giá trị. Nếu chúng ta không thể mở lòng với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không bao giờ mở lòng với những người xung quanh. Bất kỳ sự cố chấp nào đối với lời mời gọi cầu nguyện sẽ tự nó trở thành sự cố chấp để tỏ lòng hiếu khách.

Sách Giáo lý chỉ ra rằng, “Vì vậy, một khía cạnh của tấn bi kịch cầu nguyện xuất hiện ngay từ đầu: thử thách đức tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa” (Số 2570). Nếu chúng ta có ý định cầu nguyện, chúng ta cần phải sẵn lòng tin tưởng vào sự trung tín của Thiên Chúa. Khi chúng ta kêu cầu Người trong lời cầu nguyện, chúng ta phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Người và sẵn lòng chờ đợi câu trả lời của Người. Khi làm như vậy, chúng ta nhận được lòng hiếu khách từ Thiên Chúa.

Bằng cách trở thành người nhận được lòng hiếu khách của Thiên Chúa dù không xứng đáng, chúng ta được dạy về cách đặt niềm tin vào sự quan phòng của Người cũng như về cách vị tha và rộng lòng hiếu khách đối với người khác.

Bất kỳ thái độ tin tưởng hay tùng phục nào đối với Thiên Chúa chắc chắn sẽ đi ngược lại với thông điệp từ thế giới sa ngã của chúng ta. Chúng ta được bảo rằng chỉ tin vào bản thân mình và tự mình làm mọi việc. Chúng ta còn được bảo rằng phải chăm sóc bản thân và nghi ngờ người khác. Tuy nhiên, chúng ta càng kiềm chế những ảnh hưởng của thế giới sa ngã, chúng ta càng có thể lắng nghe sự khôn ngoan của Thiên Chúa cũng như mở lòng mình để cầu nguyện và đón tiếp.

Chỉ sau khi ca ngợi lòng vâng phục của Abraham đối với ý muốn của Thiên Chúa và cuộc đời cầu nguyện của ông, Sách Giáo lý mới tôn vinh lòng tốt và sự hiếu khách của vị tổ phụ này.

Sách Giáo lý dạy chúng ta: “Vì tin tưởng vào Thiên Chúa, bước đi trong sự hiện diện và trong giao ước với Người, nên tổ phụ Abraham đã sẵn sàng đón tiếp một Vị khách bí ẩn vào lều trại của mình. Lòng hiếu khách đáng chú ý của Abraham tại Mamre báo trước sự công bố về Người Con đích thực của lời hứa. Sau đó, khi Thiên Chúa đã bày tỏ kế hoạch của mình, trái tim của Abraham đã hòa hợp với lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người và ông dám can đảm cầu thay cho họ với lòng tin bạo dạn.” (số 2571)

Bằng cách khám phá đời sống nội tâm của Abraham và thấy cách ông đón nhận lòng hiếu khách của chính Thiên Chúa, giờ đây chúng ta có thể khám phá lời tường thuật trong Kinh Thánh về cách mà vị tổ phụ này chào đón và thể hiện lòng hiếu khách với Thiên Chúa.

Lòng hiếu khách ở Mamre

Sách Sáng Thế, Chương 18, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Abraham và Thiên Chúa. Chúng ta được kể rằng Abraham đang ngồi ở lối vào căn lều của mình bên những cây sồi Mamre, một địa điểm ở phía nam Thánh Địa. Ông đang tìm kiếm sự khuây khỏa khỏi cái nóng của ban ngày. Khi Abraham nhìn lên, ông thấy ba người đàn ông ở gần mình. Khi nhìn thấy những người đàn ông, ông chạy ra khỏi căn lều của mình – bất chấp cái nóng của ban ngày – để gặp họ. Khi đến gần họ, ông cúi mình xuống đất.

Câu chuyện trong Kinh Thánh này không khó trong việc xác định ba nhân vật này là ai. Họ được cho là con người, thiên thần và Thiên Chúa. Khi làm rõ ba người đó là ai, truyền thống thần học của chúng ta giúp chúng ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa và cách Người biểu lộ chính mình – cách Người mang đến cuộc thần hiện – thông qua các thiên thần của Người dưới hình dạng con người. Dù chỉ là qua trung gian, nhưng Thiên Chúa thật sự hiện diện ở Mamre! Abraham nhận ra điều gì đó siêu nhiên – thậm chí là thần thánh – nơi ba người đi ngang qua căn lều của ông.

Khi Abraham đến gần ba người và cúi chào họ, ông nói với họ: “Thưa ngài, nếu ngài vui lòng, xin đừng đi qua tôi tớ của ngài.” (St 18:3) Cuộc gặp gỡ của Abraham bắt đầu với hy vọng được ban cho ân huệ.

Sau khi đưa ra lời yêu cầu như vậy, Abraham mời họ nước để rửa chân, bánh để ăn và ông mời họ nghỉ ngơi dưới bóng cây của mình để lấy lại sức sau chuyến đi. Ba người đồng ý chấp nhận lòng hiếu khách của ông. Và thế là, Abraham yêu cầu vợ mình chuẩn bị một lượng bánh mì, thật nhiều bánh ngọt và ra lệnh cho người hầu của mình làm thịt một con bê béo. Và sau đó, chính tổ phụ đã lấy sữa đông và sữa tươi, cùng với con bê đã được chuẩn bị, và đặt trước mặt ba người. Ông vẫn đứng trong khi họ ăn dưới gốc cây của mình.

Trong khi ba người ăn, họ hỏi Abraham: “Vợ ông là Sarah đâu?” (c.9). Khi Abraham trả lời rằng bà đang ở trong lều, một trong số họ nói với ông: “Tôi sẽ trở lại với ông vào khoảng thời gian này năm sau, và khi đó Sarah sẽ có một đứa con trai” (c.10).

Tổ mẫu Sarah nghe thấy những lời đó thì bật cười vì bà vừa hiếm muộn vừa đã qua tuổi sinh nở. Chúa đã hỏi Abraham về tiếng cười đó và hỏi: “Tại sao Sarah lại cười và nói: ‘Tôi thực sự sẽ sinh con, mặc dù tôi đã già rồi sao?’ Có điều gì quá kỳ diệu mà Chúa lại không thể làm được chăng?” (cc.13-14). Cuộc trao đổi giữa Abraham và ba người kết thúc bằng một lời tuyên bố về điều kỳ diệu.

Cuộc gặp gỡ bắt đầu bằng sự ưu ái và bây giờ kết thúc bằng điều kỳ diệu. Đây là câu chuyện về Mamre. Đây là sức mạnh và tiềm năng của lòng hiếu khách mang tính cầu nguyện ở bất cứ đâu.

Bài học từ Mamre

Từ câu chuyện được kể lại ở đây, một số bài học có thể được rút ra để giúp chúng ta điều chỉnh và định hình giáo xứ của mình thành những nơi sống động của sự ưu ái, chào đón, chấp nhận, phục vụ yêu thương và điều kỳ diệu.

Sau đây là bảy trong số nhiều bài học có thể rút ra được từ Mamre:

1) Căn lều của Abraham đủ lớn cho tất cả mọi người, ngay cả những vị khách không mời. Trong giáo xứ của mình, chúng ta có nuôi dưỡng thái độ “căn lều lớn” bằng cách tiếp cận những người khác, chào đón họ và thường xuyên tìm kiếm những cách thức sáng tạo để lôi cuốn cộng đồng rộng lớn hơn vào đời sống giáo xứ của mình không? Chúng ta có để cho giáo xứ của mình trở thành những kho bãi chỉ biết tập trung vào chính mình không? Chúng ta có đánh mất động lực truyền giáo của mình dành cho những người khác không?

2) Abraham chạy theo ba người giữa lúc nóng nực vào ban ngày. Điều đó thật khó chịu và đòi hỏi một mức độ tin tưởng trong trái tim ông. Hành động của Abraham cho thấy sự chân thành trong lời chào đón của ông. Trong mong muốn trở thành một cộng đoàn hiếu khách, chúng ta có sẵn sàng rời khỏi vùng an toàn của mình không? Chúng ta có sẵn sàng đón nhận nguy cơ trong nỗ lực chào đón và chấp nhận người khác không? Chúng ta có sẵn lòng đi thêm một dặm và chạy trên đoạn đường cần thiết để mời những người khác đến với chúng ta không?

3) Khi Abraham đến gặp ba người, ông cúi mình chào họ. Trong cử chỉ này, Abraham trân trọng vị khách của mình và thể hiện lòng tôn trọng đối với họ. Trong cách cư xử với khách lạ, chúng ta có trải thảm đỏ không? Chúng ta có nhận diện những khuôn mặt mới tại giáo xứ và cố gắng chào đón họ không? Chúng ta có xem khách lạ và những người đến viếng thăm là Thiên Chúa ở giữa chúng ta không? Chúng ta có sẵn lòng cúi mình trước nhu cầu của người khác và mang vác gánh nặng của họ không?

4) Abraham đã dâng nước để rửa chân cho khách của mình. Theo nhiều khía cạnh, Abraham đã báo trước về hành động của Chúa Giêsu trong Phòng Tiệc Ly khi Người rửa chân cho bạn hữu của mình. Từ những ví dụ như vậy, chúng ta có thể thấy rằng những con người thánh thiện thì rửa chân. Những người hiếu khách cũng rửa chân. Trong các sứ vụ linh mục và trong đời sống giáo xứ của chúng ta, chúng ta có rửa chân cho người nước ngoài, người lạ, du khách, người qua đường, “người khác” không? Các sứ vụ và chương trình của chúng ta có tất cả các khía cạnh của sự tiếp cận và phục vụ vô vị lợi không? Chúng ta có tôn trọng người khác, lắng nghe họ và – theo lời kêu gọi của Thánh Phaolô – tìm cách thi đua trong các hành động tử tế và phục vụ vô vị lợi không?

5) Abraham chào đón khách của mình và ban đầu mời họ bánh mì. Tuy nhiên, vị tổ phụ đã vượt quá các tiêu chuẩn tử tế thông thường và cung cấp cho khách của mình những phần thức ăn và đồ uống dồi dào vượt xa những gì bất kỳ ai có thể mong đợi. Ông làm như vậy để mang lại cho họ sự thoải mái trên hành trình của họ. Chúng ta có vượt lên trên và vượt ra ngoài để phục vụ người khác không? Chúng ta có thể hiện bằng hành động của mình mức độ và chiều sâu của sự chào đón của chúng ta không? Trong ngân sách giáo xứ, chúng ta có phân bổ phần nào cho việc tỏ lòng hiếu khách, dịch vụ và hoạt động bác ái không?

6) Chính Abraham đã phục vụ các vị khách của mình. Ông đứng trong khi họ ăn, đó là tư thế của một người hầu, luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của chủ nhân. Trong lòng hiếu khách của mình, chúng ta tiếp cận người khác như những người hầu hay như những người làm ơn? Chúng ta có sẵn sàng đứng – chết đi cho sự tiện nghi của chính mình – để phục vụ và thể hiện sự chào đón của chúng ta đối với người khác không? Đội ngũ nhân viên giáo xứ và ban mục vụ của chúng ta có được đào tạo để đáp ứng những kỳ vọng này về lòng hiếu khách không? Khi ai đó bước vào giáo xứ của chúng ta, họ có được chào đón và phục vụ như Thiên Chúa giữa chúng ta không, hay họ bị đối xử như một mối phiền toái? Văn phòng và cấu trúc giáo xứ của chúng ta có được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của người khác không?

7) Cuộc gặp gỡ giữa Abraham và Thiên Chúa còn bao gồm cả Sarah và đứa con tương lai của họ. Cuộc gặp gỡ này kết thúc bằng việc Thiên Chúa công bố một điều kỳ diệu vây quanh sự hiện diện của Người. Chúng ta có coi khách lạ và người đến viếng thăm là cơ hội để trải nghiệm điều kỳ diệu của Thiên Chúa không? Chúng ta có sẵn sàng bước vào con đường của lòng hiếu khách để nhìn thấy và cảm nhận điều kỳ diệu của Thiên Chúa thông qua sự chăm sóc dành cho người khác không?

Đây chỉ là một phần trong số nhiều bài học mà chúng ta có thể rút ra từ Mamre. Tất cả là những bài học đóng vai trò như một cuộc tra vấn lương tâm, và chúng ta nên tìm cách áp dụng chúng vào các sứ vụ linh mục của chính mình và vào văn hóa cũng như vào cuộc sống nơi các giáo xứ của chúng ta.

Con đường của Thiên Chúa

Là những Kitô hữu, chúng ta thể hiện niềm tin thông qua hành động của mình. Chúng ta nói về một Thiên Chúa, được thể hiện mạnh mẽ trong cuộc đời tổ phụ Abraham của chúng ta, và về tình yêu của Người dành cho nhân loại, được khẳng định và biểu lộ trong tình yêu và sự hy sinh quên mình của Chúa.

Tuy nhiên, những lời khẳng định như vậy chỉ là lời nói suông, trừ khi chúng thành hình và được thể hiện qua hành động của chúng ta. Cầu nguyện và lòng hiếu khách cũng là một phần trong con đường của Thiên Chúa. Tình yêu dành cho khách lạ luôn gắn liền với tình yêu dành cho Thiên Chúa. Hai điều này không thể tách rời. Chúng ta thấy bài học này ở Mamre. Và với nỗ lực và cam kết to lớn, chúng ta có thể thấy điều đó trong các giáo xứ của mình. Bằng cách áp dụng và sống theo những bài học của Mamre, các giáo xứ của chúng ta thực sự có thể trở thành những nơi hiếu khách và tử tế.

Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Chuyển ngữ từ: thepriest.com
Nguồn: giaophanvinhlong.net