Thứ Năm tuần 29 Thường niên năm II – Ước mong (Lc 12,49-53)

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất,
và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
(Lc 12,49)

BÀI ĐỌC I (năm II): Ep 3, 14-21

“Anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa”.

Trích thư Thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi quỳ gối trước mặt Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là nguồn gốc mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất. Xin Người chiếu theo sự giàu có vinh quang của Người và nhờ Thánh Thần của Người, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Ðức Kitô ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Ðức Kitô vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa.

Nguyện cho Ðấng toàn năng ban cho chúng ta mọi sự, dư đầy quá sự chúng ta cầu xin hay hoài bão, theo như quyền lực Người thi thố trong chúng ta: nguyện cho Người được vinh quang trong Hội Thánh và trong Ðức Giêsu Kitô, qua mọi thế hệ muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 11-12. 18-19

Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).

Xướng: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa. Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. 

Xướng: Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. 

Xướng: Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. 

Xướng: Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.

 

Tin mừng: Lc 12, 49-53

49 Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

51 Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.

53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Con người có nghĩa vụ tôn thờ Chúa. Tôn thờ Chúa chính là yêu mến Chúa hết lòng, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Chúa đã thông ban tình yêu cho con và gọi con bước theo Chúa trên con đường yêu thương. Thoáng nghe Tin Mừng hôm nay, con chợt ngỡ ngàng: sao Chúa lại đến để gây chia rẽ. Con biết Chúa dạy con thương yêu mọi người, Chúa không muốn con hận thù chia rẽ. Chúa chỉ muốn con chọn Chúa trên hết mọi sự.

Gia nhập vào hàng ngũ của Chúa, con phải chống lại tất cả những ai cản trở con theo theo Chúa, thưa “vâng” với Chúa chính là nói “không” với Xa-tan. Chọn lựa con đường về Trời, tức là con phải can đảm dứt bỏ những gì ở trần gian lôi cuốn con xa Chúa.

Chúa dạy con phải yêu thương cha mẹ, thương anh chị, mến mọi người. Đồng thời, Chúa dạy con phải tôn thờ Chúa và yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Con nhớ Lời Chúa dạy: “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng với Ta. Ai cầm cày mà còn ngoái cổ đằng sau thì không xứng hợp với Nước Thiên Chúa”.

Lạy Chúa, xin giúp con đừng vì tình cảm mà nhẫn tâm xúc phạm đến Chúa, đừng vì nể nang cha mẹ, họ hàng thân thích, mà làm ngơ trước những bất công; đừng vì ham chơi, ham công việc, mà bỏ bổn phận tôn thờ Chúa, bỏ lễ Chúa Nhật, bỏ kinh nguyện sáng tối. Xin giúp con đừng vì ham tiền bạc vật chất mà lãng quên hoặc chối bỏ Chúa.

Xin cho con luôn chọn Chúa trên hết mọi người và mọi sự, dù khi chọn Chúa con phải hy sinh từ bỏ cả những gì con yêu quý nhất. Amen.

Ghi nhớ:“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống…)

Đoạn này có hai ý:

1. Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):

– “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.

– “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

2. Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẻ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,5tt ; Dcr 9,10 ; Lc 2,14 ; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2,35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).

B. Suy niệm (…nẩy mầm)

1. Tin mừng Giêsu nói về sứ mạng của Ngài cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Ngài: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là thứ bình an mà họ phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân nhưng không cùng niềm tin với mình. Phaolô và Barnabê đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).

2. Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng “chia rẻ”:

a/ Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác ;

b/ Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau.

3. Nếu trong tương lai, chúng ta không ký kết được những hiệp ước vững chắc và thành thật bảo đảm cho một nền hòa bình đại đồng, thì nhân loại, hiện đang gặp nguy cơ trầm trọng dù có một nền khoa học kỳ diệu đi nữa, có lẽ cũng sẽ tiến đến cách thảm khốc tới một giây phút mà nhân loại sẽ không biết hòa bình nào khác hơn là thứ hòa bình khủng khiếp của chết chóc” (Gaudium et Spes, số 82).

4. Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49)

Báo Tuổi Trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh Nguyễn Đức Minh như sau:

“… Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa giải phẫu của trường ĐHYD rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có ba điều ước mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ học tập của câu lạc bộ Bừng Sáng và một người bạn cùng cảnh mù. Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi ý…”

Mong ước của anh Minh giúp tôi nhận ra được những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy – ngọn lửa yêu thương mà Ngài đã ném vào mặt đất – cháy bùng lên!”

Cầu nguyện:

Giêsu ơi, con cũng muốn sống những thao thức của Giêsu, bằng cuộc sống yêu thương, và dấn thân cho tình yêu. Xin giúp con Chúa nhé! (Hosanna)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Những thử thách của việc trung thành (Lc 12,49-53)

  1. Chúng ta nghĩ thế nào khi nghe Đức Giêsu nói: “Thầy đến để gây chia rẽ” (Lc 12,51)). Một câu nói xem ra nghịch lý, khó chấp nhận. Nhưng nếu phân tích sâu xa thì câu nói đó lại là một chân lý tuyệt vời. Hoà bình đích thực chỉ có sau khi đã quyết liệt chiến đấu để chọn lựa. Hoà bình chỉ có khi đã phân rẽ sự ác khỏi điều thiện, bóng tối ra khỏi ánh sáng… Nhờ ngọn lửa thanh tẩy, bợn nhơ được loại bỏ để chỉ còn lại sự tinh tuyền trọn hảo.
  2. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Các con tưởng Thầy đến đem sự bình an đến thế gian ư ? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn ? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra.

Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hoà bìnhchia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài: Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hoà bình đến (x.Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng hòa bình. Nhưng Ngài cần thấy phải giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng: Ngài đến thế gian không phải để đem hoà bình kiểu thế gian, mà là thứ hoà bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được, sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.

Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng gia đình.

  1. Cuộc sống của người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng. Trận chiến mà chúng ta tham dự là trận chiến chống lại sức mạnh của ác thần. Vương quốc Chúa Giêsu thiết lập là một vương quốc luôn trong tình trạng chiến tranh, Giáo hội của Ngài luôn trong tình trạng thánh chiến. Thánh chiến ở đây không có nghĩa là chiếm lại Thánh địa, các nơi thánh hay bất cứ lãnh thổ trần gian nào, nhưng là chống lại sức mạnh của tối tăm, hận thù, tội lỗi và chết chóc.
  2. Bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng gây nên chết chóc đau thương. Hoà bình mà nhân loại đạt được lắm khi là giá của rất nhiều mạng người. Người Kitô hữu cũng đeo đuổi một cuộc thánh chiến, nhưng là để đạt được bình an trong tâm hồn. Sự bình an ấy, chúng ta chỉ có thể đạt được bằng giá của một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại tội lỗi và khuynh hướng xấu trong chính bản thân. Vì thế, người Tây phương có câu ngạn ngữ: “Si vis pacem, para bellum”: nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh. Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi (R.Veritas).
  3. Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”

Một đạo sĩ Ấn độ dạy các đệ tử: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng giúp ta thấy rõ sự vật, nhưng không thể biến một người xa lạ thành người anh em của chúng ta. Vậy thứ ánh sáng kỳ diệu ấy từ đâu ? Ánh sáng ấy phát xuất từ trái tim. Thứ ánh sáng ấy toả ra từ khắp các trang sách Tin mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng ấy đã bừng lên. Ánh sáng đó khiến hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em. Ta hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng cháy, đẩy lui bóng tối hận thù, ích kỷ; mở rộng tâm hồn đón nhận và trao tặng yêu thương, để mọi người nhìn nhận nhau như là anh em đích thực. Bấy giờ, đêm sẽ tàn, ngày mới sẽ bắt đầu, bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, và ánh sáng tỏa rạng từ các trái tim chan hòa yêu thương.

  1. Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình

Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật ở Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu cùng 6 anh em khác lập Hội Bác Ái Vinh Sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề: “Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Ozanam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những công nhân nghèo khổ.

Ngày nay, Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.

 

4. Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Đêm Phục sinh, không gian thật tĩnh lặng, bóng tối bao phủ và chế ngự đêm khuya…

Bỗng một ánh lửa bùng lên và một tiếng hát cất cao vang vọng: “Ánh sáng Chúa Kitô”, rồi một lời đáp được đồng thanh vang rền “Tạ ơn Chúa”. Ánh lửa bập bùng xuất phát từ cây nến Phục sinh, tượng trưng cho Chúa Kitô khải hoàn, bắt đầu được lan tỏa đến từng người tay cầm nến trong thánh đường. Ngàn ánh nến lung linh rực sáng xua đuổi bóng tối…

Suy niệm

Ba hình ảnh rất mạnh và ấn tượng được Chúa Giêsu nói đến: lửa, phép rửa bằng máu và sự xung đột, chia rẽ, như tuyên bố về thân phận của người tin phải trải qua, từ các ngôn sứ, với tiêu biểu thân phận của Giêrêmia xuyên qua Chúa Giêsu và đến mỗi chúng ta, những người đón nhận lửa tình yêu, lửa niềm tin từ trời. Giêrêmia được chọn làm ngôn sứ, đem lửa Lời Chúa đến cho dân: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt” (Gr 20,9), ông nói lời Thiên Chúa, lời chân lý đối kháng lại những gì xa rời sự thật, xa rời Thiên Chúa. Vì thế, Giêrêmia đã trở thành tường đồng chống lại cả dân tộc quốc gia, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. Gr 1). Ông đã bị bách hại bởi chính dân tộc ông và cuộc sống bị đày ải đến chết. Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc tử nạn, phép rửa máu của Đức Kitô.

Trong ngữ cảnh của đoạn Tin Mừng, tất cả những xung đột, chia rẽ mà Đức Giêsu đề cập, là hình ảnh biểu tượng những sự việc xảy ra trong quá trình thập giá tiến về phục sinh để đưa tới hiệp nhất và bình an. Các ngôn sứ cũng nói về biểu tượng chia rẽ của ngày sau hết, thời kỳ Mêssia: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch” (Mk 7,6).

Trong thời kỳ Mêssia, Đức Kitô cũng đã phải trải qua sự xung đột nội tâm, chia rẽ ý chí và thánh ý của Thiên Chúa Cha nơi Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu. Ngài khủng hoảng trước con đường sắp phải đi, thao thức lo sợ trước chén đắng sắp phải uống và phép rửa máu sắp lãnh nhận (x. Mt 26,36-46; Lc 22,39-45), đến nỗi Ngài muốn từ bỏ: “Xin cất chén này khỏi con” (Lc 22,42) nhưng vì Ngài muốn lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng lên và tỏa sáng, đốt cháy mỗi vết nhơ nhân loại, như ông Dacaria đã được linh hứng trước về sứ mạng của Đức Kitô: “Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79), giữa những giằng co xung đột, Ngài đã đặt quyết tâm mạnh: “Xin theo ý Cha đừng xin theo ý con” (Lc 22,42b).

Chia rẽ, xung đột còn xảy ra giữa Đức Kitô và những người liên hệ. Chúng ta thấy rõ nhất là thầy trò chia ly, môn đệ phản Thầy, bán Thầy, môn đệ chối Thầy, mẹ con chia ly trong máu và nước mắt.

Từ kinh nghiệm của Chúa Kitô gợi lên cho chúng ta, người Kitô hữu khi đối diện trước xung đột nội tâm, chia rẽ, những cảnh tang thương… Chúng ta hãy chiêm ngưỡng nội tâm bị chia rẽ và đang tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục chiến đấu, vượt qua xung đột hầu lửa tình yêu và bình an được đốt lên trong tâm hồn.

Ý lực sống

 “Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn” (Dt 12,2).