Chúa nhật 22 Thường niên năm A (Mt 16,21-27)

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (Mt 16,25)

BÀI ĐỌC I: Gr 20, 7-9

“Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi: suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Tôi đã nói rằng: “Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9

Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).

Xướng:

1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! – Đáp.

2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. – Đáp.

3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con; con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. – Đáp.

4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 12, 1-2

“Anh em hãy tiến thân làm của lễ sống động”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo.

Đó là lời Chúa.

Tin mừng: Mt 16, 21-27

21 Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

24 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?

27 Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

Bài giảng của linh mục Ignatio Hồ Văn Xuân

Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Sau khi Ðức Giêsu tỏ cho các Tông Ðồ con đường Thập Giá Ngài sắp bước vào. Phêrô, con người đầy nhiệt huyết và rất thương Thầy, ông không thể chấp nhận được: Thầy là Ðấng Kitô mà lại phải chịu khổ nạn. Theo các ông, Thầy phải được ca tụng, tôn vinh, được mọi người suy phục mới hợp lý. Vì thế ông vội vàng can ngăn, không muốn Thầy phải đối đầu với sự dữ.

Con đường Thập Giá là con đường duy nhất để Ðức Giêsu thực hiện sứ mệnh Cứu Thế theo như ý Thiên Chúa Cha. Phêrô vì thương Thầy nhưng vô tình, trở thành đồng lõa vớ Satan làm cản trở sứ mệnh của Ngài. Ðức Giêsu đã thẳng thắn quở trách Phêrô. Chỉ có con đường duy nhất Ngài bước đi là thi hành ý của Chúa Cha cách trọn vẹn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, sự thẳng thắn của Chúa dạy chúng con phải quyết liệt dứt khoát với những cám dỗ xúi dục chúng con chống lại ý Cha. Cha phải là tuyệt đối. Ý Cha phải trên tất cả. Dù là ai, dù là tình nghĩa đến đâu cũng không vì thế mà vị nể. Xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con được trung thành đi theo đường lối của Cha. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.

 

Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống…)

Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại. Nghe thế Phêrô vì đã ngăn cản Ngài. Sau khi quở trách Phêrô, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường Thập giá mà Ngài sắp đi cũng là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo: “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”

Khi giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”.

B. Suy niệm (… nẩy mầm)

1. “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”: Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi.

Nhưng vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì ?”

2. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn (“Mỗi ngày một tin vui”) 

3. Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. 

4. Hai cách đi theo Chúa:

Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi ; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.

Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa) 

5. “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)

Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình VTV1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.

Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã hủy mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.

Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được: Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna) 

6. “Thánh giá là một dấu chỉ, một lời mời gọi và một mặc khải:

– Dấu chỉ rằng Chúa yêu thương ta

– Lời mời gọi ta hãy yêu thương như Chúa

– Và mặc khải rằng đã yêu thì nhất thiết phải chịu khổ” (Góp nhặt)

 

Suy niệm (Giuse Đinh Lập Liễm)

NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO

A. DẪN NHẬP                                               +++

Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô. Theo ở đây không phải chỉ tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định, như đi xe dự lễ và lãnh nhận các bí tích.

Theo Chúa là phải chấp nhận một số điều kiện khắt khe như Ngài đã đề ra và mời gọi: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, ai muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình trong cuộc sống hằng ngày. Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt đòi chúng ta phải nỗ lực không ngừng, nhưng nó sẽ dẫn ta tới sự sống đời đời.

Như chúng ta thường nghe và cũng đã nói cái quí giá nhất của con người là sự tự do, nhưng kèm theo nó như hình với bóng còn có một điều hết sức quan trọng và mang đầy tính chất mạo hiểm: đó là sự lựa chọn theo nhận thức của mỗi người. Chính vì sự lựa chọn này khiến con người phải chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động mình. Do đó, khi dùng tự do có ý thức để lựa chọn, con người phải cân nhắc lựa chọn, theo đúng nguyên tắc luật lệ chính đáng, luân thường đạo lý và lương tâm ngay thẳng mới có thể tránh khỏi những sai lầm tai hại về tinh thần lẫn thể xác. May mắn thay cho chúng ta là những Kitô hữu, vì chúng ta đã có Chúa hướng dẫn, ơn Chúa soi sáng giúp chúng ta dễ dàng trong việc chọn lựa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1:Gr 20,7-9

Tuy Giêrêmia là con người nhút nhát, nhưng Thiên Chúa cũng gọi ông làm tiên tri, để tuyên bố những lời chói tai mà người ta gọi ông là “nhà tiên tri loan tin dữ”. Sứ mạng của ông gặp nhiều khó khăn: người ta chống đối, chế nhạo ông, thậm chí còn lên án ông nữa, vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, lại còn loan báo án phạt của Thiên Chúa. Bị đau khổ tư bề, nhiều lần ông đã định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.

+ Bài đọc 2:Rm 26,21-27

Lời khuyên nhủ của thánh Phaolô đối với tín hữu Roma cũng giống như lời Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Người theo Chúa là người từ bỏ cách sống theo thời của mình, và hơn nữa là từ bỏ chính mình, tự hiến toàn thân cho Chúa như một của lễ sống động dâng cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong thánh lễ.

Thánh Phaolô cho biết: làm như thế là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý và đáng trân trọng nhất.

+ Bài Tin mừng:Mt 26.21-27

Đây là lần đầu tiên, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết là Ngài phải chịu bắt bớ, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Lời tiên báo này làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, không hiểu nổi vì các ông vẫn còn cái nhìn và sự hiểu biết của con người, đến nỗi thánh Phêrô phải phản đối. Nhưng Chúa gạt ý kiến này đi và cho các ông biết chính các ông cũng sẽ phải đi theo con đường của Ngài.

Những ai muốn làm môn đệ của Ngài thì phải chấp nhận đi theo con đường của Ngài, con đường đó đòi hai điều kiện căn bản: – Điều kiện thứ nhất là từ bỏ chính mình.

               – Điều kiện thứ hai là vác thập giá của mình.

Ai thi hành hai điều kiện đó sẽ được phần thưởng: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Nếu muốn theo Chúa

I. LỜI CHÚA MỜI GỌI

Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai: “Thầy là ĐứcKitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết: “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và luật sĩ gây ra, bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở ra một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này Chúa muốn mạc khải về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài. Quả vậy, đây là lần thứ nhất trong ba lần (Mt 16,21; 17,22; 20,17) Ngài báo về mầu nhiệm đó. Mỗi lần loan báo như đánh dấu một chặng đường tiến về Giêrusalem. Việc loan báo như vậy cũng là để chuẩn bị đức tin cho các môn đệ có thể đương đầu với cuộc khủng hoảng sắp tới, khi Ngài bước vào cuộc tử nạn và phục sinh.

Vì thế, Chúa đã tuyên bố rõ ràng: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Trông thấy trước con đường khó khăn đang trải ra trước mặt các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khoát lập trường là có muốn theo Ngài nữa hay không? Câu hỏi và lời mời gọi này nêu lên tinh thần tự do đáp trả của con người hơn là sự đòi hỏi của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người như một món quà độc đáo và quí báu nhất.

THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, không phải chỉ là mang tên môn đệ của Ngài, mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài là làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào có thể làm cho họ lìa bỏ nhau: Đi đâu cho thiếp đi cùng

                                                                 Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam (Ca dao).

Trong lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai từ “NẾU” và “THÌ”. Khi dùng chữ “nếu” thì luôn luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, không có không được.

II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA

Phân tích lời kêu gọi của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đưa ra hai điều kiện cho bất cứ ai, các môn đệ hay chúng ta, muốn làm môn đệ của Ngài phải thi hành: – Từ bỏ chính mình.

                                         – Vác thập giá mình.

1. Từ bỏ chính mình

Đây là phương diện tiêu cực của việc theo Chúa. Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật… và do bên trong như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi…

Đức Thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói: “Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ”.

Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hoà vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.

Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ: Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch, rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật. Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xã thân thuộc trọn về Chúa.

Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa: “Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần” (Tv 68,10). (Lm. Nguyễn Duy Phượng, Thực yêu thanh bần, 1967, tr 124-125)

                                                Truyện: Thánh Têrêsa chịu đựng

Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể: “Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoắng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41). Nghĩ xong, con lủi đi như con cuốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang, để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.

2.Vác thập giá mình

Đây là khía cạnh tích cực của việc theo Chúa. Quả vậy, theo Chúa thì phải nỗ lực, cố gắng trong việc sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng trong sự chịu đựng và kiên trì.

Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Roma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối với người Hy lạp, thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai cập, thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ân phúc. Các nước Tiểu Á và Đông Á vẽ thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.

Nhìn chung, nhân loại phân chia thập giá làm hai thứ: một thứ thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là KHỔ GIÁ, một đàng thương đau để được sống trường sinh nên được gọi là THÁNH GIÁ.

Trong đời sống Kitô hữu. ai cũng phải vác thập giá, vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc chúng ta là phải vác như thế nào: tự nguyện hay miễn cưỡng? Theo kinh nghiệm của chúng ta và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề… Tuy nhiên, Thiên Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.                           Truyện: Thánh giá vừa sức mình

Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo:

– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh giá vừa sức con.

Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được: có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:

– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.

– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.

 

III. THEO CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta cần phải nhìn rõ vào gương tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để can đảm và sẵn sàng từ bỏ mình và vác thập giá mình mà sống theo Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Tại sao Chúa bảo chúng ta: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạngsống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Bởi vì thánh Mátthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC, nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng: “Đã đến lúc người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”. Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân, thì có thể sống nhưng sống để mà chết. Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng… có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.

Chúng ta thấy có mối tương quan biện chứng giữa “mất đi” và “được lại”. Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc, khi dám mất đi cái tạm bợ, để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua, để được cái trường tồn. Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan, khi sẵn lòng “mất đi” sự sống hay chết, để “được lại” sự sống đời đời. Và Chúa Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì”.

Đứng trước thập giá, đứng trước đau khổ, chúng ta không thể hiểu, không thể cắt nghĩa được vì đó là mầu nhiệm. Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta có thể làm khi gặp đau khổ là tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Bất cứ ai chấp nhận mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được sự sống ấy”. Trong cuộc sống, người ta luôn gặp thập giá, đau thương, gian nan thử thách… Tất cả những cái đó có thể làm nên những điều có lợi cho chúng ta.

Truyện: Biến bại thành thắng

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: cái khó bócái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này: Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thìmới sinh hoa kết quả được”. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn: Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.

Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh. Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một đoạn trong đó:   “Trên căn gác một nhà xưa cổ,

Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,

Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.

Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,

Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:

“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này,

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.

Tôi liền mở nó ra và đọc,

Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói:

“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.

Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu

Ta chỉ việc gấp lại và viết lên:

“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.

Rồi một ngày nào đó trên Nước trời,

Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói:

“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

 

Suy niệm (Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Mt 16,21-27

TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa,

mà là lối nghĩ của loài người” (Mt 16,23).

Thầy Giêsu đã mắng anh Phêrô như thế

khi anh muốn can ngăn Thầy chấp nhận cuộc Khổ nạn.

Lời can ngăn của Phêrô là một cám dỗ rất mạnh đối với Thầy,

vì đó là lời can ngăn của người môn đệ đầy mến thương:

“Xin Thiên Chúa thường đừng để Thầy gặp chuyện ấy !”

Để thắng được cơn cám dỗ mạnh mẽ này, đến từ Phêrô,

Thầy Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ không kém.

Ẩn sau lời của Phêrô, Thầy thấy có lời đường mật của Xa-tan,

lời mà Thầy đã nghe từ buổi đầu trong hoang địa.

Xa-tan đã rủ rê Thầy bái lạy nó để được mọi vinh hoa trần gian.

Nó muốn Thầy chinh phục thế gian bằng con đường tắt (Mt 4,9).

Thầy Giêsu đã cương quyết bảo nó cút đi.

Và bây giờ Thầy cũng đòi Phêrô trở về đúng chỗ của mình.

“Hãy lui lại đằng sau Thầy !”

Môn đệ phải là người đi sau Thầy, chứ không dẫn đường đi trước.

 

Thật ra Phêrô can ngăn Thầy là điều hiểu được.

Ông mới được Thầy khen, vì nhờ Chúa Cha, ông biết Thầy là Đấng Kitô.

nhưng khuôn mặt đặc biệt của Đấng Kitô ấy, ông chưa rõ.

Từ thời vua Đa-vít, Thiên Chúa đã hứa ban cho Ítraen một Đấng Kitô.

Đấng này sẽ là một vị vua thuộc nhà Đa-vít,

mà vương quyền và ngai vàng thì vĩnh cửu (2 Sm,11-16).

Trải qua cả ngàn năm, dân Ítraen vẫn chờ Thiên Chúa giữ lời hứa.

Vào thời Đức Giêsu, người dân vẫn mong có Đấng Kitô đến

để cứu Ítraen khỏi tay Rôma, và cho dân hưởng thái bình no ấm.

Ai cũng nghĩ Đấng Kitô phải là Đấng toàn thắng, mạnh mẽ oai hùng,

nên khi nghe Thầy Giêsu nói về thân phận khổ đau thất bại của mình,

Phêrô đã cho thấy ông không thể nào chấp nhận được (Mt 16,22).

Ông không thể chấp nhận hình ảnh Đấng Kitô bị hành hạ và bị giết.

 

“Lối nghĩ của anh không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa” (Mt 16,23).

Kế hoạch của Thiên Chúa vượt trên lối nghĩ của loài người.

Đức Giêsu Kitô không chỉ cứu dân Ítraen, mà cứu cả nhân loại.

Ngài không cứu họ khỏi nô lệ Rôma, nhưng cứu khỏi nô lệ tội lỗi.

Ngài không cứu độ bằng chiến thắng, nhưng bằng thất bại và cái chết.

Qua đó, Ngài hiên ngang bước vào vinh quang vĩnh cửu (Mt 16,27).

Ngài không phải chỉ là một người được Thiên Chúa xức dầu và sai đi,

Ngài còn là chính Thiên Chúa Ngôi Lời làm người.         

Điều Thiên Chúa thực hiện vượt xa những gì Ngài đã hứa.

Ngài làm trọn lời hứa một cách khó hiểu và lạ lùng.

“Sự phong phú, khôn ngoan và tri thức của Chúa sâu thẳm biết bao!

Quyết định của Người khôn dò khôn thấu” (Rm 11,33).

 

Thầy Giêsu muốn các môn đệ thuộc mọi thời đại

tiếp tục đi sau Thầy, chia sẻ cùng một thân phận như Thầy,

từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất mạng sống mình vì Thầy,

coi cả thế gian nhẹ hơn cuộc sống đời sau.

Họ không lùi bước trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì họ tin Thầy đã được phục sinh và sẽ lại đến trong vinh quang

để thưởng phạt từng người tùy theo việc họ làm (Mt 16,27).

Lạ lùng thay con đường Thầy Giêsu và bao thế hệ môn đệ đã đi !

Chỉ mong chúng ta đừng nghĩ theo kiểu thường tình con người,

nhưng mỗi ngày chấp nhận sống những nghịch lý của Thiên Chúa.

 

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó,

thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

 

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

 

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

 

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa, và thuộc về Chúa,

thì Chúa đã sống cho con,

và thuộc về con từ lâu.

 

Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cái bút:

Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cái bút như sau:

– Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

Nhưng cái bút trả lời:

– Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.

Tờ giấy chưa kịp trả lời cái bút thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi màu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cái bút và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).

Suy niệm

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ, đồng thời cũng nói với mọi người chúng ta, người tin theo Ngài như môn sinh: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Mối tình thâm sâu của người môn sinh Chúa Giêsu được biểu tượng bằng hình ảnh thập giá, chính thập giá liên kết vận mệnh của môn đệ với vận mệnh của chính Thầy: Thầy sao trò vậy, như Chúa Giêsu đã từng quả quyết: “Môn sinh không hơn Thầy”, Thầy vác thập giá, trò cũng mang thập tự. Như lời Chúa mời gọi các môn đệ, chúng ta cũng được mời gọi đi theo bước chân Ngài: Bước đầu là từ bỏ và vô hiệu hóa những ràng buộc chính mình với thế gian, để được tự do thanh thoát dưới ân sủng của Thánh Linh và tình yêu, bước tiếp những bước đi mới, những bước đi huyền nhiệm thập giá để có thể tiếp nhận khổ đau và cái chết theo kế hoạch và tình yêu của Chúa Cha, như Thầy đã bước đi trong hành trình thập giá tiến về đồi Canvê. Trong thập giá, khám phá ra sự phục sinh vinh quang, mà Thầy Giêsu đã khai mở bằng sự phục sinh của chính Ngài khi bước qua thập tự.

Hình ảnh đó được ẩn dụ dưới hình ảnh chim cú đã phát triển được đôi mắt sáng nhờ “bị” đẩy vào bóng đen. Chính trong bóng tối, chim cú được khai mở khả năng thấy sáng của mình và bóng đêm không thể khuất phục được sức sống của chim cú ngay trong đêm. Hình ảnh chim cú sáng mắt trong đêm tối là biểu tượng của sự khám phá ra nét công hiệu của những “mũi tên ngược” trong cuộc sống của kiếp nhân sinh, cách đặc biệt của đời sống niềm tin đó là những thập giá mà chúng ta mang qua những thử thách, với những chén đắng mà chúng ta uống xuyên qua những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống. Thập giá và chén đắng này làm bừng sáng con mắt đức tin và khai mở con mắt tình yêu nơi người sống trong huyền nhiệm thập giá. Chính họ có một nhãn quan mới nhìn vào cuộc sống với biết bao nhiêu biến động có thể mang dáng dấp của bóng tối.

Trong thập giá tình yêu trở nên hy lễ sống động: Hy lễ tình yêu mà Chúa Giêsu dâng tiến lên Chúa Cha để đền tội cho nhân loại. Hy tế đó luôn kéo dài trong lịch sử và mời gọi mọi người chúng ta bằng sự đóng góp của bản thân tham dự vào hy tế qua cuộc sống được thánh hóa dưới thập giá, như tâm tình thánh Phaolô khuyên tín hữu thành Rôma “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1).

Hãy cùng lên Giêrusalem để vác thập giá theo Chúa là lời mời gọi từ bỏ những thực tại hào nhoáng phù du lôi kéo con người đi vào thế gian với vỏ bọc an toàn tạm bợ “được cả thế giới”, nhưng lại đánh mất chính mình, mất tư cách bạn hữu, mất tư cách môn sinh. Từ bỏ tất cả để vác thập giá tiến lên Giêrusalem, để tôi và bạn được như thánh Phaolô: “Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô” (Pl 1,21) và “biết Đức Kitô là một mối lợi” (Pl 3,8). Khám phá ra thập giá trong đời mà mỗi chúng ta mang và tiến đến đồi Canvê với một tinh thần “vượt qua” mang tình yêu Thiên Chúa.

Nơi thập giá, Ngài mời gọi tôi và bạn cùng xốc vác cuộc đời, trong đó có cái tôi của tài năng, thánh thiện, nhưng cũng có sự khiếm khuyết, bất toàn, đau khổ, thử thách… Ngài không ngừng cứu thoát chúng ta, và chúng ta vác thập giá là cùng Ngài chiến đấu như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cùng tôi chiến đấu…” (Rm 15,30).

Từ bỏ mình vác thập giá và nhờ đó mà thập giá của tôi và bạn trở nên hy lễ tình yêu, để xứng đáng tham dự vào hiến tế sống động của Chúa Kitô trên thập giá.

Ý lực sống

“Vinh dự của tôi là thập giá” (Gl 6,14).

 

Suy niệm (song ngữ)

22nd Sunday in Ordinary Time
Reading I: Sir 3:17-18,21b,22-27 II: Hebrews 12:18-19,22-24a

Chúa nhật 22 mùa Thường niên
|Bài Đọc I: Hc 3:17-18,21b,22-27 II: Dt 12:18-19,22-24a

Gospel
Luke 14:1,7-14

1 On a sabbath he went to dine at the home of one of the leading Pharisees, and the people there were observing him carefully.

7 He told a parable to those who had been invited, noticing how they were choosing the places of honor at the table.

8 “When you are invited by someone to a wedding banquet, do not recline at table in the place of honor. A more distinguished guest than you may have been invited by him,

9 and the host who invited both of you may approach you and say, ‘Give your place to this man,’ and then you would proceed with embarrassment to take the lowest place.

10 Rather, when you are invited, go and take the lowest place so that when the host comes to you he may say, ‘My friend, move up to a higher position.’ Then you will enjoy the esteem of your companions at the table.

11 For everyone who exalts himself will be humbled, but the one who humbles himself will be exalted.”

12 Then he said to the host who invited him, “When you hold a lunch or a dinner, do not invite your friends or your brothers or your relatives or your wealthy neighbors, in case they may invite you back and you have repayment.

13 Rather, when you hold a banquet, invite the poor, the crippled, the lame, the blind;

14 blessed indeed will you be because of their inability to repay you. For you will be repaid at the resurrection of the righteous.”

Phúc Âm
Luca 14:1,7-14

1 Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.

7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:

8 “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,

9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.

10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn”.

11 Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

12 Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi.

13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.

14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.

Interesting Details

• This is the last of the six accounts of Jesus’ activities on the Sabbath in Luke. The Sabbath has been a cause of conflict stories with the Pharisees before. (4:16-30; 4:31-37; 6:1-5; 6; 6-11; 13:10-17).

• The setting of the meals also has been used for other confrontations: washing of hands, eating with sinners… If Jesus eats a meal with a Pharisee on a Sabbath, there surely will be a conflict.

• It was common in the ancient Mediterranean world that a meal is a setting for philosophers and teachers to offer their wisdom. But for Luke, the image of Jesus at table is that of one who accepts and receives all kinds of people.

• First parable. Choosing the lowest place at table could be a common advice on social behavior. However, in Jesus’ teaching, the point is not about etiquette but the kingdom behavior, as v.11 makes clear: “… the one who humbles himself will be raised up”.

• Second parable. Hosting can be a way of putting others in your debt, but why put in your debt those who cannot pay ? A banquet is also an opportunity for a host to acknowledge humility. In the kingdom, God is host and who can repay God ?

• Luke’s list of the fringe people: the poor, crippled, lame, and blind, also repeated in the next story where the invited guests refuse to come (15-24) – is his list of kingdom people. That has been clear since Mary’s song (1:46-55).

• (v.14) Resurrection. The Pharisees, who believe in the resurrection are stung by Jesus’ parable. In the confrontation, instead of trapping Jesus, they fell into their own trap.

Chi Tiết Hay

• Phúc Âm thánh Luca có sáu đoạn kể lại các việc Đức Giêsu đã làm trong ngày Sabát. Đây là đoạn sau chót. Ngày Sabát đã nhiều lần là nguyên nhân cho việc chạm trán của Đức Giêsu với các người Biệt Pháị (Xem các đoạn 4:16-30; 4:31-37; 6:1-5; 6: 6-11; 13:10-17).

• Các bữa ăn cũng thường là nơi diễn ra các xung khắc khác về nguyên tắc và lề luật: việc rửa tay trước khi ăn, việc dùng bữa với những người tội lỗi,… Khi một đoạn Phúc Âm kể lại Đức Giêsu dùng bữa với một người Biệt Phái mà lại vào ngày Sabát thì việc đụng độ là điều đương nhiên sẽ phải xảy rạ

• Trong thế giới cổ xưa ở vùng Tiểu Á, các triết lý gia và các nhà thông thái thường dùng khung cảnh một bữa ăn để giảng dạy, truyền bá sự hiểu biết của mình. Nhưng Luca đã dùng khung cảnh này để diễn tả hình ảnh một Đức Giêsu đón nhận tất cả mọi lớp người vào dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãị

• Dụ ngôn thứ nhất. Việc lựa chọn chỗ ngồi thấp nhất có thể chỉ là một lời khuyên thông thường về một thái độ lịch sự. Nhưng ở đây, đặc biệt hơn, Đức Giêsu muốn nói đến một đức tính siêu nhiên: đó là sự khiêm nhường “… ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”

• Dụ ngôn thứ haị Mời người khác dự tiệc có thể làm cho họ mắc nợ. Vậy tại sao lại cứ mời những người không có khả năng trả nợ ? Đây là một dịp để Đức Giêsu giảng dạy thế nào là khiêm nhường: Khi Thiên Chúa mời mọi người vào dự tiệc trong vương quốc của Ngài, ai có khả năng trả nợ được cho Ngàỉ.

• Những người được Luca kể ra ở đây cũng sẽ được lập lại trong đoạn Phúc Âm kế tiếp, kể lại sự việc những người được mời dự tiệc nhưng đã kiếm cớ thoái thác. Đó là những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Những người mà Đức Mẹ Maria đã kể đến trong bài ca Magnificat.

• Ngày kẻ lành sống lạị Những người Biệt Phái tin tưởng vào sự sống lạị Qua câu chuyện này họ chính là những người bị khước từ sự sống đời saụ Tưởng đã giăng được bẫy để bắt lỗi Đức Giêsu, ngờ đâu chính họ lại rơi vào bẫy nàY.

One Main Point

Humility is not a matter of putting ourselves down, but humility is recognizing that we are nourished, gifted by God and then reaching out to others in the same way.

Một Điểm Chính

Khiêm nhuờng không có nghiã là tự coi mình không có giá trị gì. Trái lại, khiêm nhường là nhìn nhận mình được Thiên Chúa nuôi dưỡng bằng những ân sủng, được Ngài ban cho những khả năng chuyên biệt, và rồi biết dùng những món qùa này để phục vụ tha nhân.

Reflections

1. In which way am I nourished and gifted by God ?

2. Out of this gratitude, how have I reached out to others to share what God gives them through me ?

Suy Niệm

1. Tôi đươc Chúa nuôi dưỡng ra sao và ban cho những khả năng nào ?

2. Để tỏ lòng biết ơn, tôi dã chia sẻ thế nào những qùa tặng mà Chúa dã ban cho tôi ?